Cơ Sở Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Biện Pháp Ngăn Chặn Đặt Tiền Hoặc Tài Sản Có Giá Trị Để Bảo Đảm

bộc lộ nhiều non kém như sự am hiểu pháp luật, nghiên cứu chuyên sâu về các quy định còn hạn chế, không chịu trau dồi các văn bản mới quy định về các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

+ Một số nhỏ cán bộ tiến hành tố tụng còn có biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lợi dụng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm để làm “luật” với bị can, bị cáo và gia đình bị can, bị cáo để thu lợi bất chính hoặc cố tình áp dụng sai đối tượng, tính chất… nhằm trục lợi bất chính.

Kết luận chương 2


Đề tài đi sâu làm rõ các qui định pháp luật hiện hành của Tố tụng hình sự và văn bản hướng của Nhà nước về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

Bên cạnh đó ở chương này đề tài cũng đi sâu làm rõ thực trạng tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành Tố tụng. Từ đó đề tài đi vào phân tích làm rõ nguyên nhân, tồn tại hạn chế của công tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm của cơ quan tiến hành Tố tụng.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM


3.1. Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

Cơ sở nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được thể hiện trên ba phương diện dưới đây:

- Về phương diện thực tiễn áp dụng pháp luật

Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự - 7

Cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn để giải quyết tình hình tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, tồn tại cần phải giải quyết trong quá trình đó là: việc áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đạt hiệu quả thấp; nhiều trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giam; thời hạn tạm giam kéo dài có chiều hướng tăng; tạm giữ hình sự thay cho tạm giữ hành chính; những vi phạm trong áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng, như dùng tra tấn, nhục hình, nhục hình biến tướng đối với người bị tạm giữ, tạm giam gây chết người; còn biểu hiện của tư tưởng "Quyền anh, quyền tôi" nên Cơ quan điều tra không chấp hành quyết định từ chối phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất, lần thứ hai; trả tự do trái pháp luật; việc trả tự do chiếm tỷ lệ cao đối với người bị tạm giam sau đó miễn trách nhiệm hình sự.

- Về phương diện lý luận

Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm như đã phân tích ở chương 2 của luận văn, đặt ra những vấn đề cần được lý luận giải quyết như sau:

Một là, đối tượng bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ là bị can, bị cáo như quy định trong BLTTHS năm 2003;

Hai là, thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; một số người khác được giao thẩm quyền này phải được gắn với các yếu tố như ở địa bàn xa xôi, hẻo lánh, ở xa cơ quan điều tra;

Ba là, việc chỉ gửi cho Viện kiểm sát quyết định tạm giữ như hiện hành liệu đã được kiểm sát chặt chẽ;

Bốn là, bằng cách nào để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nhằm thực hiện xã hội hóa việc thi hành pháp luật;

Giải quyết được những vấn đề lý luận này còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức pháp luật để có thái độ đúng đắn, thận trọng đối với người tiến hành tố tụng khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đồng thời, giúp cho các sinh viên, học viên nhận thức đúng đắn các kiến thức pháp luật để áp dụng chính xác vào công tác thực tiễn sau này. Ngoài ra, việc hoàn thiện chế định các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng về những vấn đề nêu trong luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận luật tố tụng hình sự, như một nguồn tài liệu tham khảo có ích bổ sung vào khoa học luật tố tụng hình sự ở nước ta.

- Về phương diện lập pháp

Từ những tồn tại của thực tiễn áp dụng chế định các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và những vấn đề nảy sinh từ lý luận cần giải quyết cho thấy, pháp luật thực định có những nội dung còn thiếu, chưa được xác định hoặc chưa rõ nghĩa để từ đó, bổ sung, sửa đổi, hủy bỏ cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời, đáp ứng được khả năng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm theo dự báo tình hình tội phạm trong giai đoạn mới.

Vấn đề tiếp theo cho lập pháp là cần phải hoàn thiện những quy phạm về chế định các biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm đồng thời để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án như:

Dựa trên cơ sở những mục tiêu, quan điểm, phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng đã được làm rõ, chúng ta cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nói riêng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm

Như đã đề cập, trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bên cạnh các biện pháp cưỡng chế trong Tố tụng hình sự và các biện pháp ngăn chặn khác, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cũng có vai trò quan trọng đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét sử và thi hành án thể hiện việc linh hoạt, mềm dẻo thông qua việc nếu trường hợp không cần thiết phải tạm giam nhưng thấy cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để bị can, bị cáo đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm và phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu. Do đó việc tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự năm 2003 đã được sửa đổi bổ xung năm 2008 về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là hoàn toàn cần thiết, đồng thời góp phần tôn trọng, tăng cường và bảo đảm các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự. Đặc biệt, đây còn là cơ chế pháp lý hữu hiệu để toàn xã

hội, các cơ quan, tổ chức, công dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia giám sát thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự.

Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.

Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành

pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.

Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là một đòi hỏi cấp bách. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Khi tiến hành hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung và quy định của hình phải không tước tự do cần phải chú ý:

- Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.

- Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà

bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật.

- Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.

- Tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của pháp luật.

Hệ thống pháp luật phải được xây dựng, hoàn thiện dựa trên các tiêu chí sau:

- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

+ Đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

+ Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2020.

+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/10/2023