Những Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bí Mật Kinh Doanh

gặp phải sự phản ứng từ đại diện các doanh nghiệp kinh doanh vận tải quốc tế như Ông Đào Trọng Khoa - Giám đốc Công ty Giao nhận Biển Đông, Ông Nguyễn Hùng - đại diện Công ty Gemadept, Ông Nguyễn Nam Tiến - Tổng giám đốc Công ty Vinalink, và từ phía Ông Bùi Ngọc Loan - Chủ tịch VIFFAS đại diện cho các doanh nghiệp kinh doanh VTQT tại Việt Nam. Qua sự việc này, Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế cần thấy được vai trò và quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp giao nhận, logistics trong giai đoạn hiện nay để có chính sách phù hợp, tạo điều kiện bảo mật các BMKD của các doanh nghiệp và nuôi dưỡng để ngành giao nhận, logistics trong nước tăng cường sức cạnh tranh và năng lực hội nhập. [36]

Nguyên nhân của những vụ việc trên là do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi đặt ra các quy định trong lĩnh vực chuyên môn mình quản lý chưa phù hợp với pháp luật về SHTT. Những hạn chế này là nguyên nhân của việc BMKD chưa được quan tâm nhiều đến BMKD và không hiểu biết một cách đầy đủ về pháp luật đối với BMKD của một số cơ quan quản lý nhà nước nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ cho các doanh nghiệp.


3.2 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh

Ở nước ta, việc bảo hộ quyền SHCN đối với BMKD được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ và một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật SHTT. Tuy nhiên, so với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, pháp luật nước ta về bảo hộ BMKD vẫn chưa đầy đủ, đang bộc lộ những hạn chế nhất định cần tiếp tục hoàn thiện.


Để gia nhập WTO, Việt Nam đã xây dựng và vận hành một hệ thống bảo hộ quyền SHTT quốc gia theo chuẩn mực của Hiệp định TRIPS. Theo

yêu cầu của Hiệp định TRIPS, mỗi quốc gia thành viên phải dành sự bảo hộ quyền SHTT một cách đầy đủ và hữu hiệu cho công dân của các thành viên WTO khác theo nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc. Việt Nam đã cam kết tuân thủ đầy đủ mọi quy định của Hiệp định TRIPS ngay từ ngày gia nhập WTO (11/01/2007) mà không có thời hạn chuyển tiếp.

Hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là đáp ứng đủ các quy định của WTO. Đây thực sự là một nỗ lực đáng kể của chúng ta trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Trong những năm qua, Việt Nam vẫn nỗ lực tiếp tục hoàn chỉnh khung pháp luật về SHTT như: Luật SHTT 2005 sau 3 năm thực thi đã bộc lộ một số hạn chế và được sửa đổi Luật SHTT vào tháng 6/2009; tiến hành sửa đổi phần có liên quan đến SHTT trong Bộ luật Hình sự... Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa chính sách về SHTT của chúng ta đã thực sự hoàn chỉnh, trong đó không có sự thay đổi nào đối với các quy định về BMKD. Trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả luận văn có một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hộ BMKD ở Việt Nam.

3.2.1 Về phạm vi và điều kiện bảo hộ

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 14

Thứ nhất về phạm vi, tại Việt Nam, BMKD là đối tượng của quyền SHCN được pháp luật bảo hộ theo Khoản 1Điều 750 Bộ luật Dân sự năm 2005. BMKD là “thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh” (Khoản 23, Điều 4 Luật SHTT). Tuy nhiên, không phải bất cứ thông tin bí mật nào cũng được bảo hộ. Điều 85 của Luật SHTT đưa ra danh mục các loại thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa BMKD bao gồm: “1. Bí mật về nhân thân; 2. Bí mật về quản lý nhà nước; 3. Bí mật về quốc phòng, an ninh; 4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh”.

Như vậy, trong pháp luật Việt Nam đã có khái niệm BMKD; tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn chung chung, chưa làm rõ phạm vi các loại thông tin được bảo hộ. Điều này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng, BMKD đơn thuần là các thông tin về các hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Quan điểm khác lại cho rằng BMKD bao gồm cả các thông tin về khoa học kỹ thuật, thông tin về các hoạt động kinh doanh của chủ thể… Khác với Việt Nam, pháp luật các nước thường quy định tương đối rõ ràng về vấn đề này. Ví dụ: theo Khoản 4 Điều 1 Luật Bí mật thương mại hợp nhất của Mỹ năm 1979, khái niệm “bí mật thương mại” đã được giải thích tương đối cụ thể, thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế: “Bí mật thương mại là các thông tin bao gồm công thức, mẫu hình, sưu tập các thông tin, chương trình, phương sách, biện pháp, công nghệ hoặc quy trình”.


Theo khái niệm hiện hành: BMKD là thông tin đang tồn tại dưới dạng bí mật do hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ mà có được và có khả năng sử dụng trong kinh doanh đúng là có phạm vi rộng. Thông tin bí mật mà có khả năng sử dụng trong kinh doanh thì nhiều vô số, mặt khác thông tin “có khả năng sử dụng trong kinh doanh” chưa chắc đã có giá trị thương mại và đem lại lợi thế cho hoạt động kinh doanh. Tác giả cho rằng cụm từ “có khả năng sử dụng trong kinh doanh” này là chưa chính xác cần thay bằng cụm từ “có giá trị thương mại” thì hợp lý hơn.


Điều đó có nghĩa là chúng ta cần có một khái niệm về BMKD rõ ràng hơn với phạm vi và điều kiện bảo hộ hẹp hơn để gần với bản chất của BMKD hơn từ đó bảo hộ đối tượng này một cách tốt hơn.


Những đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng) khi chưa đăng ký bảo hộ phải có tính mới, lúc này chúng tồn tại với hình thức là bí mật

kinh doanh. Nhưng tùy thuộc tình hình phát triển công nghệ trên thị trường, bí mật kinh doanh được đăng ký sẽ trở thành một đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể. Do vậy, khi xây dựng khái niệm BMKD ngoài các thông tin mang tính chất của hoạt động kinh doanh thuần túy, vẫn phải bao gồm cả những thông tin mang tính khoa học, kỹ thuật.

Tác giả kiến nghị, có thể quy định lại khoản 23 Điều 4 Luật SHTT về khái niệm BMKD như sau: “Bí mật kinh doanh là thông tin thể hiện dưới dạng công thức, mẫu hình, cấu trúc của sản phẩm, sưu tập các thông tin, chương trình, phương sách, biện pháp, công nghệ hoặc quy trình, các kết quả nghiên cứu khoa học chưa được bộc lộ và có giá trị thương mại”. Quy định như vậy sẽ làm cho khái niệm về BMKD cụ thể hơn, dễ hiểu hơn và phù hợp hơn với Hiệp định TRIPs. Trên thực tế kinh doanh ngày nay, các thương nhân có thể coi nhiều loại thông tin khác nhau là bí mật kinh doanh: hướng nghiên cứu phát triển khoa học, các kết quả nghiên cứu khoa học, công thức pha chế, quy trình sản xuất, cấu trúc của sản phẩm, mã nguồn của các chương trình máy tính, sơ đồ kiến trúc, danh sách khách hàng, nhu cầu, thái độ, cơ cấu tiêu dùng của khách hàng, phương án cung ứng, lưu trữ, chăm sóc khách hàng, kế hoạch, chiến lược kinh doanh tiếp thị, quảng cáo, ý tưởng kinh doanh, kết quả nghiên cứu, khảo sát thị trường… Tất cả những loại thông tin liệt kê trên đều nằm trong các dạng mà khái niệm tác giả kiến nghị. Các quy định mang tính cụ thể bao giờ cũng dễ hiểu và dễ áp dụng hơn là các quy định ở dạng khái quát cao nhưng lại khó hiểu và khó áp dụng, dễ gây tranh chấp vì phạm vi quá rộng.

Với khái niệm trên, ta thấy rõ ràng phạm vi của BMKD được bảo hộ đã thu hẹp hơn trước, không còn chung chung và nó mang tính chất thương mại nhiều hơn mà vẫn bao hàm được các thông tin mang tính khoa học, kỹ thuật.

Thứ hai, về điều kiện bảo hộ đối với BMKD, quyền SHCN đối với BMKD phát sinh khi BMKD đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định. Vì vậy, việc xác định các điều kiện bảo hộ đối với BMKD là rất quan trọng. Theo quy định của Điều 84 Luật SHTT, BMKD sẽ được bảo hộ khi đáp ứng các điều kiện sau: không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng BMKD đó; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để BMKD đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Ngoài ra, theo tinh thần của Điều 8 Luật SHTT, thì các BMKD trái với đạo đức xã hội, xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh sẽ không được pháp luật Việt Nam bảo hộ.

Về cơ bản, các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật nước ta đã thể hiện được ba đặc điểm chính của BMKD là: tính bí mật; có giá trị; và được chủ sở hữu bảo mật. Tuy nhiên, so sánh với quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng ta thấy có một số điểm khác biệt như:

Theo Điều 39 của Hiệp định TRIPs, một trong các điều kiện quan trọng để thông tin bí mật được bảo hộ là phải có giá trị thương mại (commercial value). Cụ thể, Khoản 2 Điều 39 Hiệp định TRIPs quy định thông tin được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện: “có tính chất bí mật nghĩa là các thông tin đó không phổ biến hoặc không dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó đối với những người thường xuyên giải quyết với các loại thông tin như vậy; có giá trị thương mại vì nó có tính chất bí mật, và được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng các biện pháp hợp lý”. Điều 9, Chương 2 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng quy định tương tự.

Như vậy, pháp luật Việt Nam chưa thể hiện đầy đủ nội dung này. Trên thực tế, giá trị thương mại của thông tin bí mật được tạo ra bởi nhiều yếu tố, trong đó “lợi thế” mà thông tin bí mật mang lại cho người nắm giữ nó chỉ là một trong các yếu tố quan trọng làm nên giá trị thương mại của thông tin. Giá trị thương mại còn bao gồm tài chính hoặc công sức, trí tuệ mà chủ sở hữu bỏ ra để có được BMKD nên nếu quy định như khoản 2 Điều 84 hiện hành thì sẽ dẫn đến cách hiểu: thông tin mà không có giá trị thương mại (tức là không có công sức, trí tuệ hay tài chính gì cả để tạo ra nó) cũng được coi là BMKD vì Điều 84 có nói gì đến giá trị thương mại của thông tin đâu. Về bản chất thì thông tin mà không có giá trị thương mại thì sẽ không thể tạo được lợi thế trong kinh doanh.

Mặt khác, việc quy định như khoản 2 Điều 84 hiện hành sẽ dẫn đến cách hiểu BMKD đem lại lợi thế cho một mình chủ thể quyền BMKD so với tất cả mọi chủ thể còn lại trong xã hội - những người không nắm giữ, không sử dụng BMKD đó. Những người còn lại mà “không nắm giữ, không sử dụng BMKD đó” ngoài đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp ra còn có thể là bất kỳ ai. Thế thì phần đông trong số đó (trừ đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp ra) họ cần gì phải so sánh lợi thế với chủ thể quyền BMKD. Do đó nên quy định lại là “lợi thế so với đối thủ cạnh tranh khác” sẽ đúng bản chất của BMKD trong hoạt động kinh doanh hơn, khắc phục được hạn chế vừa phân tích trên đây.

Qua những phân tích trên đây, tác giả kiến nghị trong lần pháp điển hóa pháp luật về sở hữu trí tuệ tới đây, các nhà làm luật nên xác định lại phạm vi và điều kiện bảo hộ BMKD sao cho cụ thể hơn, dễ hiểu hơn và dễ áp dụng hơn. Điều 84 Luật SHTT về điều kiện BMKD được bảo hộ, theo tác giả nên chỉnh sửa lại khoản 2 thành: “Có giá trị thương mại và khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ BMKD lợi thế so với đối thủ cạnh tranh khác”.

Cũng theo Khoản 2, Điều 39 của Hiệp định TRIPs, thông tin được bảo hộ khi “không phổ biến, không dễ dàng tiếp cận” không phải là đối với mọi chủ thể mà chỉ đối với “những người thường xuyên giải quyết đối với các loại thông tin như vậy”. Điều này có nghĩa, ngay cả những người thường xuyên tiếp xúc, xử lý thông tin đó, thì đối với họ, những thông tin như vậy vẫn là loại thông tin không phổ biến, hay có thể gọi là thông tin “hiếm”. Quy định trên của Hiệp định TRIPs có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn cản việc bảo hộ quá rộng đối với các loại thông tin khác tồn tại trên thực tế.

So sánh quy định này của Hiệp định TRIPs với điều kiện về tính bí mật của thông tin tại khoản 1 của Điều 84 Luật SHTT hiện hành (BMKD được bảo hộ khi: thông tin không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được...) chúng ta thấy rõ ràng nội dung này của Hiệp định TRIPs lại chưa được pháp luật Việt Nam thể chế hóa đầy đủ, cụ thể, chưa ngăn cản được việc bảo hộ quá rộng đối với các loại thông tin khác tồn tại trên thực tế cho phù hợp với Hiệp định TRIPs. Vì vậy nên quy định khoản 1 Điều 84 như sau: “không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó đối với những người thường xuyên hoạt động trong lĩnh vực có liên quan đến các loại thông tin như vậy”.

3.2.2 Về bảo vệ quyền SHCN đối với BMKD

Để bảo vệ quyền SHCN đối với BMKD, pháp luật về SHTT hiện hành đã có những quy định tương đối đầy đủ, rõ ràng, có khả năng xử lý hiệu quả các hành vi xâm phạm BMKD. Tuy nhiên, tác giả vẫn muốn kiến nghị thêm một vài điểm nhỏ để góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định trong lĩnh vực bảo vệ quyền SHCN đối với BMKD này.

Thứ nhất, về các biện pháp (chế tài) dân sự được quy định tại Điều 202 Luật SHTT, các nhà làm luật đã đặt ra 5 biện pháp dân sự đó là Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại và Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối… Tác giả kiến nghị bổ sung thêm một chế tài dân sự nữa đó là: “Công nhận quyền dân sự”. Đây là một chế tài dân sự quan trọng của biện pháp dân sự đã được quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự 2005. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình… Việc công nhận quyền dân sự có ý nghĩa một mặt cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và khẳng định quyền dân sự nào đó cho chủ thể quyền, mặt khác tuyên bố với các chủ thể khác rằng quyền dân sự này đang được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị xử lý theo quy định của pháp luât.


Khi có hành vi tiếp cận, bộc lộ, sử dụng BMKD bất hợp pháp, quyền SHCN đối với BMKD của chủ thể quyền bị xâm phạm, chủ thể này muốn bảo vệ quyền của mình thì phải chứng minh được mình là chủ sở hữu hợp pháp của BMKD đó. Chứng minh được điều đó thì mới được pháp luật bảo vệ. Sau khi hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu BMKD đã được xử lý bằng các biện pháp phù hợp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng thêm biện pháp nữa đó là công nhận quyền SHCN đối với BMKD cho chủ sở hữu đó nhằm khẳng định với những chủ thể còn lại trong xã hội rằng BMKD đó là của anh ta và để bảo vệ triệt để quyền dân sự đó. Các biện pháp buộc chấm dứt hành vi xâm phạm, buộc xin lỗi, hay buộc bồi thường thiệt hại… tuy là rất quan trọng để bù đắp lại những thiệt hại cho chủ thể quyền khi có hành vi

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí