cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có thể có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Về thẩm quyền xử lý hành chính hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với BMKD, cơ quan thanh tra, công an, quản lý thị trường, hải quan, ủy ban nhân dân các cấp được áp dụng các biện pháp hành chính. Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (Điều 203 - Luật SHTT).
Về hình thức xử phạt hành chính, các cơ quan này có thể áp dụng một trong hai hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền để xử lý hành vi vi phạm quyền SHCN đối với BMKD (Điều 214 - Luật SHTT). Hình thức xử phạt cảnh cáo áp dụng đối với trường hợp vô ý vi phạm; vi phạm nhỏ, lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Đối với hình thức xử phạt tiền, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, người có thẩm quyền quyết định mức phạt tiền trong khung phạt đã quy định. Đối với hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó trong trường hợp không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng. Mức trung bình của khung tiền phạt được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu và mức tối đa. Vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống, nhưng không được giảm dưới mức tối thiểu của khung tiền phạt đã quy định. Vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên, nhưng không được tăng trên mức tối đa của khung tiền phạt đã quy định (Nghị định 106).
Tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung theo quy định tại Điều 214 –
Luật SHTT đó là đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xảy ra vi phạm.
Các vấn đề về hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức phạt, thẩm quyền và thủ tục xử phạt được quy định chi tiết tại Nghị định 106/2006/NĐ- CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.
Thứ hai, về biện pháp hình sự, theo Điều 212 – Luật SHTT: “Cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự”.
Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 đã ghi nhận các tội xâm phạm về SHTT nói chung trong chương “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” tại ba điều 170a, 170b, 171. Điều 171 quy định về tội xâm phạm quyền SHCN, theo đó tội xâm phạm quyền SHCN là việc người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm. Đây là Điều luật mới được sửa đổi của Bộ luật hình sự năm 2009, trong đó không nói đến BMKD nhưng BMKD cũng là một đối tượng của SHCN nên theo Điều 212 – Luật SHTT thì các hành vi xâm phạm đến BMKD đang được bảo hộ tại Việt Nam nếu có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Thứ ba, về biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, theo quy định tại khoản 4 Điều 200 - Luật SHTT, cơ quan hải quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Theo Điều 216 – Luật SHTT, cơ quan hải quan có quyền áp dụng các biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bmkd
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bmkd
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 12
- Những Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Bí Mật Kinh Doanh
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 15
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
phạm quyền sở hữu trí tuệ; kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến BMKD.
Tạm dừng thủ tục hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là biện pháp được tiến hành theo yêu cầu của chủ thể quyền nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để chủ thể quyền thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử phạt hành chính.
Kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là biện pháp được tiến hành theo đề nghị của chủ thể quyền nhằm thu thập thông tin để thực hiện quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan.
Chủ thể quyền SHCN đối với BMKD có quyền đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu khi có căn cứ cho rằng hàng hóa đó xâm phạm quyền SHCN đối với BMKD.
Ý nghĩa của biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan thể hiện ở chỗ: trong thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan, chủ thể quyền có điều kiện thu thập thông tin, chứng cứ về lô hàng để từ đó thực hiện các quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo xử phạt hành chính.
Người yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHCN đối với BMKD có các nghĩa vụ sau: Chứng minh mình là chủ thể quyền SHCN đối với BMKD bằng các tài liệu, chứng cứ như đã phân tích các phần trên; Cung cấp đầy đủ thông tin để xác định hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHCN đối với BMKD hoặc để phát hiện hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền SHCN đối với BMKD; Nộp đơn cho cơ quan
hải quan và nộp phí, lệ phí theo quy định của pháp luật. Người nộp đơn có thể là chủ thể quyền BMKD hoặc là người đại diện theo ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật; Bồi thường thiệt hại và thanh toán các chi phí phát sinh cho người bị áp dụng biện pháp kiểm soát trong trường hợp hàng hóa bị kiểm soát không xâm phạm quyền SHCN đối với BMKD. Các chi phí phát sinh bao gồm chi phí lưu kho bãi, xếp dỡ, bảo quản hàng hóa và các chi phí phát sinh khác cho cơ quan hải quan và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan theo quy định của pháp luật về hải quan. Thiệt hại do việc tạm dừng làm thủ tục hải quan do hai bên thỏa thuận hoặc được xác định theo thủ tục tố tụng dân sự (Điều 217 – Luật SHTT).
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ này, khoản 2 Điều 217 luật này quy định: Người yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan phải nộp khoản đảm bảo bằng một trong hai hình thức: Khoản tiền bằng 20% trong trị giá lô hàng cần áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan hoặc tối thiểu 20 triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị lô hàng; Chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác.
Khoản đảm bảo này sẽ được hoàn trả lại cho người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và thanh toán các chi phí khác.
Trong các biện pháp nói trên, biện pháp dân sự thường được các chủ thể quyền mong muốn áp dụng hơn cả vì ý nghĩa mà nó mang lại đó là sự đền bù tương xứng cho những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà chủ thể quyền phải gánh chịu do hành vi xâm phạm BMKD gây ra. Biện pháp hành chính và hình sự ít được áp dụng vì hành vi xâm phạm BMKD thường không gây thiệt hại cho xã hội mà chủ yếu ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu hoặc chỉ bị coi là tội phạm khi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm mà pháp luật hình sự quy định.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI BÍ MẬT KINH DOANH Ở VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
3.1 Thực trạng hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh ở Việt Nam
Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu có đủ các điều kiện như: Không phải là hiểu biết thông thường; Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó lợi thế so với người không nắm giữ; Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Khi đảm bảo được đầy đủ các điều kiện trên thì bí mật kinh doanh của doanh nghiệp được bảo hộ vô thời hạn. Điều đó có nghĩa là khi đó quyền của chủ sở hữu đối với BMKD đã được tự động xác lập. Do đó khi nói đến thực trạng xác lập quyền SHCN đối với BMKD, chúng ta chủ yếu nói đến thực trạng áp dụng các biện pháp bảo mật cần thiết để bảo mật cho các BMKD.
Trên thực tế, để được bảo hộ, lãnh đạo của một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam đã quan tâm chú trọng đến vấn đề bảo mật cho BMKD của mình. Họ đã thiết kế một quy trình bảo mật và chia thành nhiều phần. Mỗi phần giao cho một bộ phận đảm trách, các bộ phận này có nghĩa vụ giữ tuyệt đối bí mật. Công thức và công đoạn quan trọng nhất trong quy trình công nghệ do giám đốc công ty trực tiếp nắm giữ.. Ví dụ như Công ty rượu và nước giải khát Anh Đào, để giữ bí quyết kinh doanh, giám đốc điều hành của công ty đã thiết kế hẳn một quy trình bảo mật và chia thành nhiều phần. Một phần công thức và quy trình công nghệ được giao cho phòng kỹ thuật đảm trách. Bộ phận này có nhiệm vụ giữ tuyệt đối bí mật. Ngoài ra, công ty cũng áp dụng nguyên tắc hạn chế tối đa khách thăm quan khu vực kỹ thuật, thậm chí
ngay cả cán bộ của công ty nếu không được phép cũng không được ra vào. Trong quy trình công nghệ, giám đốc cắt ra một công đoạn quan trọng nhất và chỉ một mình giám đốc nắm giữ công thức. Đây cũng chính là khâu làm nên sự khác biệt rượu Anh Đào và các loại rượu khác trên thị trường.
Công thức chế biến cà phê Trung Nguyên cũng được bảo vệ khá kỹ. Từng công đoạn, từ hương liệu, nhiệt độ cho tới khâu tẩm ướp nguyên liệu được giao cho nhiều người nắm giữ. Ban đầu tổng giám đốc chịu trách nhiệm quản lý công đoạn quan trọng nhất trong 7 bước chế biến, sau này do công việc ngày càng bận rộn tổng giám đốc đã lựa chọn người có uy tín để chuyển giao. Việc chọn người để nắm giữ các khâu giữ vai trò quan trọng trong quy trình công nghệ. Đó phải là những người có tài, có đức và biết coi trọng chữ tín. Công ty Trung Nguyên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ và tăng cường ý thức trách nhiệm của họ đối với việc gìn giữ bí quyết kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với những cơ sở sản xuất nhỏ, việc bảo vệ bí mật kinh doanh thường thực hiện theo phương thức cha truyền, con nối. Ví dụ Ông Bùi Đức Thắng, chủ một xưởng sản xuất hàng mỹ nghệ tại Hà Tây, cho hay cơ sở của ông sản xuất hàng sơn mài, cẩn trứng, sơn tre xuất khẩu, mỗi nhân công làm thuê được hướng dẫn một vài công đoạn, việc hoàn thiện sản phẩm cuối cùng thường do người trong gia đình ông đảm nhiệm nên ít khi lo lộ kỹ thuật.
Để bảo vệ bí mật kinh doanh, các công ty nước ngoài khi chuyển giao công nghệ vào Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng đến việc chuyển giao những khâu kỹ thuật quan trọng.
Tóm lại, trên thực tế để có thể bảo đảm các bí mật kinh doanh không bị xâm nhập, các doanh nghiệp đã thực sự chú trọng và xây dựng một chiến lược toàn diện và đồng bộ về vấn đề này. Trước hết các doanh nghiệp đều đã xác định rõ ràng, cụ thể bí mật kinh doanh cần được bảo vệ, gìn giữ là gì, áp
dụng những biện pháp gì để bảo đảm tính bí mật của thông tin đó... Một trong những biện pháp mang tính chủ động để bảo vệ thông tin bí mật là hạn chế số người tiếp cận thông tin đến mức có thể, có những giới hạn nhất định đối với việc tiếp cận thông tin bí mật hoặc truy cập vào các cơ sở dữ liệu cần được bảo mật. Trong quan hệ với các đối tác hoặc các bên thứ ba, các doanh nghiệp cũng đã đặc biệt chú trọng cơ chế bảo mật thông tin thông qua các hợp đồng bảo mật và các cam kết không tiết lộ thông tin.
Bảo vệ bí mật kinh doanh là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp. Mỗi nước đều có cách thức, chế tài riêng nhằm giúp doanh nghiệp có được những “tấm khiên” hiệu quả. Tuy nhiên, ở Việt Nam điều này vẫn khiến các doanh nghiệp đau đầu. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh rất đa dạng, việc ăn cắp bí quyết kinh doanh đang diễn ra ngày một tinh vi hơn. Công ty Trung Nguyên cũng từng không ít lần phải đối mặt với vấn nạn này, từng có nhân viên của công ty đã bị mua chuộc và chia sẻ thông tin cho đối thủ. Tuy nhiên, do những người này chỉ nắm một phần trong quy trình công nghệ nên công ty vẫn giữ được bí quyết riêng của mình. Có nhiều trường hợp đối thủ cho nhân viên đi sưu tầm những đồ đựng hương liệu, vỏ hộp đựng cà phê về để nghiên cứu với mong muốn nhái sản phẩm của Trung Nguyên.
Từ trước đến nay, ở Việt Nam chưa có tranh chấp lớn nào liên quan đến BMKD và do khái niệm bí mật kinh doanh cũng như vấn đề bảo vệ, gìn giữ bí mật kinh doanh còn khá mới mẻ và chưa thực sự được coi trọng nên các chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng chưa thực sự nghiêm khắc (chủ yếu áp dụng biện pháp dân sự, hành chính). Điều này một phần là do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ít khi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng và toàn xã hội mà chỉ ảnh hưởng tới chủ sở hữu nó.
Trên thực tế đã có một số vụ việc có liên quan đến BMKD nhưng chỉ dừng lại ở những công văn phản hồi, phản ánh những bức xúc khi thông tin bí
mật bị xâm phạm chứ chưa trở thành tranh chấp cụ thể. Ví dụ như trường hợp Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh Bạc Liêu tại Hội nghị bàn giải pháp phối hợp kinh doanh năm 2011 công bố số dư nợ của các doanh nghiệp. Điều này khiến cho các doanh nghiệp nợ nhiều “méo mặt” vì bỗng nhiên bị lộ BMKD. Việc công bố nợ của NHNN Việt Nam Chi nhánh Bạc Liêu là vi phạm pháp luật. Theo đó, pháp luật quy định tài khoản (bao gồm tài khoản có và tài khoản nợ) của cá nhân, tổ chức là bí mật và ngân hàng không được phép công khai nếu không có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (các cơ quan tố tụng và cơ quan thuế). Theo Quyết định 51 của NHNN năm 2007, Trung tâm Tín dụng của NHNN có quyền khai thác thông tin tín dụng nhưng hoàn toàn không được công khai ra ngoài. Những thông tin này chỉ được sử dụng nội bộ (là dịch vụ có thu phí) trong hệ thống các ngân hàng để biết dư nợ của doanh nghiệp, đánh giá khả năng thu hồi nợ… chứ không được phép công bố rộng rãi. Không những thế, tài khoản nợ còn là bí mật kinh doanh nên việc làm của NHNN Việt Nam Chi nhánh Bạc Liêu còn vi phạm Luật SHTT khi tiết lộ những thông tin này. Có rất nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để kinh doanh, nếu mới vay thì số tiền dư nợ có thể sẽ rất lớn. Việc công bố dư nợ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của doanh nghiệp, có thể làm thiệt hại đến công việc kinh doanh của họ. Vì vậy, doanh nghiệp có thể kiện ra tòa để yêu cầu bồi thường. [35]
Một ví dụ khác, đó là việc lộ BMKD vì thuế. Giá mua và giá bán được coi là bí mật kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nhưng Bộ Tài chính lại yêu cầu các doanh nghiệp giao nhận vận tải quốc tế phải khai báo những thông tin này ngay trong hợp đồng và hóa đơn tài chính. Đó là nội dung Công văn 15448/BTC - TCT ngày 2/11/2009 về việc thu thuế giá trị gia tăng 10% trên chênh lệch giữa giá bán và giá mua cước vận tải quốc tế. Doanh nghiệp phải xuất cả hai hóa đơn riêng lẻ, thế thì còn gì là BMKD nữa. Công văn này đã