Kiến Nghị Hoàn Thiện Các Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Đối Với Kiểu Dáng Công Nghiệp

tuệ gây ra.Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bổ sung các quy định quan trọng về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 204) và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 205), tuy nhiên do tính chất đặc thù của loại tài sản “quyền sở hữu trí tuệ” nên nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại hoặc xác định không đầy đủ về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế (có thể nhiều hơn hoặc ít hơn thiệt hại thực tế xảy ra).

- Trình độ của thẩm phán trong lĩnh vực SHTT còn hạn chế gây ra sự hoài nghi về quyền lợi ích của doanh nghiệp có được bảo đảm hay không nếu đưa vụ việc ra xét xử trước tòa án. Thực tế này xuất phát từ tính chất phức tạp và đa dạng của các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu KDCN nói riêng, cho nên một số thẩm phán vẫn gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp trên thực tế vì chưa đủ trình độ chuyên sâu về sở hữu trí tuệ. Vì vậy, trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thì kết quả trưng cầu giám định hoặc kết luận các yếu tố vi phạm của cơ quan có thẩm quyền về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền quyền sở hữu trí tuệ có giá trị quan trọng để Tòa án dùng làm căn cứ giải quyết các vụ án về sở hữu trí tuệ được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ từ năm 2000 đến năm 2005 (giai đoạn trước khi có Luật Sở hữu trí tuệ) của toàn ngành Tòa án như sau: thụ lý 93 vụ án, đã giải quyết 61 vụ án, trong đó: đình chỉ, tạm đình chỉ là 16 vụ án; hòa giải thành 12 vụ án; đưa ra xét xử 33 vụ án (bao gồm 11 vụ án tranh chấp quyền tác giả và quyền liên quan, 22 vụ án tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp). Kể từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực thi hành (từ ngày 01-7-2006) thì tình hình giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án cũng không có sự chuyển biến đáng kể, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao từ 01-7-2006 cho đến ngày 22-6-2009 thì toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý được 108 vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ (trong đó chiếm đa số là tranh chấp về quyền tác giả với 90 vụ; tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp chiếm 10 vụ; tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm chiếm 5 vụ; tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ chiếm 3 vụ).

Xử lý vi phạm quyền sở hữu KDCN bằng biện pháp hình sự

Bên cạnh các biện pháp hành chính và dân sự, các tranh chấp về bảo hộ quyền sở hữu KDCN còn được đưa ra xét xử theo trình tự tố tụng nhằm mục đích trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi vi phạm, duy trì và bảo vệ trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu cũng như người tiêu dùng. Tuy nhiên trên thực tế số lượng vụ việc vi phạm được đưa ra xét xử trước tòa án nhân dân các cấp tương đối ít. Trong tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả hàng nhãi diễn ra phổ biến trên thị trường thì đây là một dấu hiệu không bình thường. Lý giải cho tình trạng này là một số nguyên nhân sau:

- Mức hình phạt cho những loại tội phạm này còn nhẹ chưa đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa;

- Pháp luật hình sự Việt Nam chỉ đặt ra trách nhiệm hình sự đối với cá nhân mà chưa qui định trách nhiệm này đối với pháp nhân. Thực tế pháp nhân là chủ thể chủ yếu thực hiện hành vi vi phạm trong lĩnh vực KDCN, cho nên khi các chủ thể này có hành vi vi phạm thì không có chế tài hình sự nào để xử lý nhằm răn đe, phòng ngừa;

- Các vụ án hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng vi phạm quyền SHCN chủ yếu do tố giác từ nhân dân, lực lượng quản lý thị trường, thanh tra Bộ Khoa học- Công nghệ… còn đơn tố giác của chủ sở hữu KDCN bị vi phạm lại rất ít.

Ngoài ra còn phải kể đến biện pháp kiểm soát biên giới đối với các vi phạm về KDCN

Thực chất kiểm soát biên giới là một biện pháp hành chính. Tuy nhiên đối với mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam hoạt động kiểm soát biên giới, kiểm soát việc xuất nhập khẩu các loại hàng hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn các loại sản phẩm không được sản xuất theo đúng qui định của pháp luật được lưu thông qua biên giới quốc gia. Theo qui định tại Điều 57, Điều 58 và Điều 59 Luật Hải quan năm 2005 chủ sở hữu quyền sở hữu KDCN đã được bảo hộ theo qui định của pháp luật Việt Nam có quyền đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu mà mình có căn cứ cho rằng có vi phạm quyền sở hữu KDCN;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Mặc dù các qui định về kiểm soát biên giới của Việt Nam khá tương thích với những qui định của Hiệp định TRIPs nhưng việc thực thi trên thực tế còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng này như sau: thứ nhất, ý thức của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và người tiêu dùng về bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền sở hữu KDCN nói riêng chưa cao; thứ hai, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức ngành hải quan về vấn đề bảo hộ quyền SHTT chưa thông suốt vì có nhiều quan điểm cho rằng việc tiến hành biện pháp ngăn chặn là theo yêu cầu và vì lợi ích của chủ sở hữu.

Như vậy từ thực trạng tình hình vi phạm quyền sở hữu KDCN và các biện pháp bảo vệ chủ sở hữu như đã trình bày ở trên có thể thấy tính cấp thiết của việc hoàn thiện những lỗ hổng, hạn chế trong hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu KDCN cũng như tăng cường các biện pháp liên quan khác để bảo vệ quyền và lợi ích của những chủ sở hữu hợp pháp cũng như người tiêu dùng Việt Nam trong lĩnh vực SHTT.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam - 13

3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với kiểu dáng công nghiệp

Thực tiễn đòi hỏi việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cho phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế hiện nay. Việc hoàn thiện theo tôi cần theo một số hướng sau:

Thứ nhất, như các phần trước đã trình bày, thủ tục đăng ký bảo hộ quyền sở hữu đối với KDCN ở Việt Nam hiện nay còn gặp rất nhiều bất cập khi áp dụng. Thủ tục còn dài với nhiều bước, tốn thời gian khi chờ đợi được bảo hộ. Thời hạn dài như vậy gây nhiều bất cập trên thực tế, ví dụ như: một doanh nghiệp thời trang nộp đơn xin đăng ký bảo hộ một kiểu dáng áo thời trang mùa đông, nếu tính từ khi nộp đơn (là mùa đông) đến khi được cấp bằng bảo hộ cũng phải mất khá lâu, lúc này đã qua mùa đông như vậy mẫu áo thời trang này sẽ không còn phù hợp với thời tiết nữa, nếu để đến mùa sau mới cho sản xuất theo kiểu dáng yêu cầu được bảo hộ thì lại lỗi mốt. Như vậy, các doanh nghiệp thời trang sẽ không thể phát triển được kinh doanh sản xuất. Vì vậy, hàng may mặc trên thực tế rất ít khi đăng ký bảo hộ kiểu dáng mà doanh số bán hàng thường phụ thuộc vào thương hiệu (nhãn hiệu).

Vì vậy, để tạo ra được một hệ thống làm việc hiệu quả, nhanh chóng pháp luật Việt Nam cần thay đổi một số quy định về trình tự và yêu cầu thẩm định đặc biệt là phải rút ngắn thời gian cấp văn bằng bảo hộ hoặc có thể phân ra từng loại hàng hóa có thời gian bảo hộ KDCN khác nhau.

Thứ hai, thiết lập một hệ thống các quy định đầy đủ và rõ ràng dành riêng cho đối tượng là KDCN để phân biệt với các đối tượng còn lại của quyền SHTT. Bởi, khi cần tra cứu các quy định của pháp luật về đối tượng mà chủ sở hữu đang muốn bảo hộ, chủ sở hữu chỉ cần tìm kiếm phần nội dung về KDCN là sẽ có đầy đủ các quy định của pháp luật về các vấn đề như điều kiện bảo hộ KDCN, cách thức xác lập quyền sở hữu đối với KDCN, các quy định về thủ tục đăng ký cấp văn bằng bảo hộ KDCN, v.v.. mà không cần quan tâm đến những nội dung liên quan đến các đối tượng bảo hộ khác. Hơn thế nữa, việc phải tìm kiếm các quy định về KDCN giữa các quy định không liên quan thuộc các đối tượng bảo hộ khác dễ gây rối loạn cho người tra cứu, dẫn đến khả năng bỏ sót những quy định quan trọng. Tuy rằng điều này có thể gây ra sự chồng chéo trong các quy định chung hoặc giống nhau giữa KDCN và các đối tượng khác của quyền SHTT. Thiết nghĩ, vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách: những gì thuộc về điểm chung và giống nhau của các đối tượng có thể được xếp vào phần những quy định chung; còn những gì thuộc về điểm riêng và không giống nhau của từng đối tượng thì được quy định riêng ở các Chương dành riêng cho một đối tượng cụ thể. Như vậy, sẽ dễ dàng hơn cho việc tra cứu các quy định thuộc về một đối tượng như KDCN, giúp cho các chủ sở hữu nhận thức được rõ ràng và chính xác hơn về sản phẩm trí tuệ của mình, nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính chủ sở hữu của KDCN đó.

Mặt khác, pháp luật Việt Nam hiện hành không có các quy định đặc thù về bảo hộ thiết kế kiểu dáng hàng dệt may, cũng như điều kiện bảo hộ đối với loại kiểu dáng này. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về KDCN, đảm bảo sự tương thích với các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên, pháp luật nước ta cần bổ sung các quy định đặc thù về bảo hộ thiết kế kiểu dáng liên quan đến hàng dệt may.

Thứ ba, tham gia Thỏa ước Lahay 1960 về đăng kí quốc tế KDCN, tiến tới

xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế về việc đăng kí bảo hộ KDCN, tạo thuận lợi cho chủ sở hữu KDCN trong việc đăng kí bảo hộ tài sản trí tuệ của mình. Đồng thời, khi tham gia Công ước này, các chủ thể ở Việt Nam có thể đăng ký quốc tế KDCN ở nhiều nước thành viên của Liên minh quốc tế về kiểu dáng công nghiệp với chỉ một đơn đăng ký cho Văn phòng quốc tế. Hơn nữa, với cơ chế giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp, chúng ta có thể tránh được những rủi ro không đáng có do thời hạn xét duyệt quá dài.

Nếu như trước nay Việt Nam vẫn xây dựng thủ tục đăng kí theo lối cũ khi tự mình đặt ra một quy trình đăng ký KDCN phù hợp với điều kiện thực tế nước mình (theo con đường quốc gia), thì nay với sự hội nhập và cách tân, chúng ta cần cân nhắc việc tham gia vào quy trình đăng kí kiểu dáng mang tính quốc tế, đây là một hướng đi đơn giản, quy chuẩn, thống nhất và đỡ tốn kém không chỉ đối với những chủ thể muốn tham gia bảo hộ kiểu dáng mà bản thân cơ quan nhà nước cũng sẽ giảm bớt được phần nào trách nhiệm và những thủ tục rườm rà, không cần thiết, ngoài ra cùng với cơ chế giải quyết nhanh chóng, chuyên nghiệp thì việc đăng kí quốc tế sẽ giúp người nộp đơn tránh được những rủi ro không đáng có trong quá trình đăng kí.

Một khi tham gia vào Thỏa ước Lahay cũng tức là tham gia vào sân chơi quốc tế mà Việt Nam buộc phải tuân thủ luật chơi một cách nghiêm ngặt, nếu như không thận trọng chúng ta hoàn toàn có thể không thu được gì từ việc là thành viên. Điều này không những gây khó khăn mà còn là thách thức cho Việt Nam bên cạnh những mặt thuận lợi từ sự hội nhập quốc tế.

Ở một khía cạnh khác, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành qua các năm nhằm bổ sung các quy định về SHTT một cách đầy đủ và có hệ thống, pháp điển hóa các quy định, các văn bản pháp luật về SHTT, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tham gia bảo hộ quyền của mình một cách thuận lợi. Ngoài ra, cần tiếp tục tiếp thu và nghiên cứu những quy định tiến bộ của pháp luật thế giới (trong những ĐƯQT và các quốc gia có hệ thống SHTT phát triển) nhằm tạo đà cho sự phù hợp trong bối cảnh hội nhập tương lai.

Thứ tư, làm rõ quy định về thời hạn bảo hộ: Theo Hiệp định TRIPS (Khoản 3 Điều 26), HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ (Khoản 5 Điều 10), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (Điều 87) thì thời hạn bảo hộ KDCN ít nhất là 10 năm. Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thời hạn bảo hộ KDCN là 5 năm kể từ ngày nộp đơn và được gia hạn hai lần, mỗi lần 5 năm. Theo pháp luật Việt Nam, trong trường hợp ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó (khoản 3 Điều 5 Luật SHTT 2005). Vấn đề đặt ra là chiếu theo quy định này thì đối với chủ sở hữu KDCN là công dân nước thành viên Hiệp định TRIPS sẽ áp dụng thời hạn bảo hộ như thế nào.

Trên thực tế, nếu đơn đăng ký KDCN do người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài nộp cho cơ quan SHTT Việt Nam thì sẽ áp dụng thời hạn bảo hộ là 5 năm và được gia hạn 2 lần. Tính theo thời hạn quy định của Luật SHTT Việt Nam thì thời hạn bảo hộ KDCN tối đa là 15 năm. Còn theo quy định các ĐƯQT chỉ nêu ra thời hạn tối thiểu là 10 năm chứ không có tối đa.

Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định cụ thể hay văn bản hướng dẫn về vấn đề này để hài hòa hóa quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về thời hạn bảo hộ KDCN. Thiết nghĩ các nhà làm luật nên bổ sung luật hoặc ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, tránh gây khó khăn khi áp dụng.

Thứ năm, làm rõ các quy định với quyền SHCN với KDCN có yếu tố nước ngoài: quyền SHCN với KDCN có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay chưa được quy tách biệt với quyền SHCN với KDCN. Hiện tại KDCN có yếu tố nước ngoài được bảo hộ như với KDCN bình thường, chưa quy định rõ ràng về điều kiện bảo hộ, thủ tục xử lý, thời hạn hiệu lực… trong khi các vụ việc về KDCN có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, luật không quy định rõ khiến cho thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết gặp nhiều khó khăn. Cần có những quy định riêng về quyền SHCN với KDCN có yếu tố nước ngoài để việc giải quyết được nhanh chóng, dễ dàng hơn.

Thứ sáu, hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm kiểu dáng công nghiệp Một bất cập lớn trong việc thực thi quyền SHTT hiện nay là thiếu sự phối

hợp xử lý một cách khoa học của các cơ quan chuyên trách. Hiện nay Việt Nam có tới 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về SHTT là toà án; quản lý thị trường; thanh tra (KH&CN, Văn hoá – Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn); công an; hải quan; UBND các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được quy định rõ trong văn bản hướng dẫn của Chính phủ (Nghị định 106) nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo. Điều này không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi muốn liên lạc mà còn làm chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ đợi, dẫm chân lên nhau hoặc mạnh ai nấy làm. Việc có quá nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp giữa các cơ quan này còn chưa hợp lý, khiến hiệu lực thi hành bị phân tán và trở nên phức tạp, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi.

Cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra tổng hợp nào về tình hình vi phạm SHTT nói chung và vi phạm KDCN nói riêng tại Việt Nam, mà mỗi cơ quan thực thi lại hoạt động độc lập, đưa ra những con số khác nhau, chưa kể số liệu đưa ra thường không cập nhật. Rõ ràng, chúng ta đang thiếu một đầu mối thống nhất để liên lạc trong trường hợp xảy ra vi phạm quyền SHTT nói chung, quyền KDCN nói riêng.

Do đó, cần cải cách bộ máy hành chính và phân công lại chức năng, quyền hạn của từng cơ quan thực thi quyền SHTT theo hướng bố trí một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận, thụ lý các đơn yêu cầu xử lý hành chính, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Tăng cường công tác thanh tra và sự phối kết hợp của các cơ quan chức năng để xử lý kịp thời khi phát hiện vi phạm. Bên cạnh đó, cần sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi.

Mặt khác, cần đổi mới nội dung quản lý các hoạt động bảo hộ quyền SHCN ở các ngành, các địa phương. Theo dõi tình hình thi hành các văn bản pháp luật về SHCN tại địa phương, kiến nghị các biện pháp cụ thể hóa việc vận dụng các chính sách của Nhà nước về bảo hộ quyền SHCN và tổ chức thực hiện các chính sách đó. Xây dựng hệ thống quản lý nhà nước về các hoạt động bảo hộ quyền SHCN ở địa phương và thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống.

Kết hợp chặt chẽ công tác bảo hộ với công tác chống buôn lậu, đặc biệt là

chống buôn lậu các mặt hàng giả, vi phạm quyền sở hữu KDCN. Trao quyền rộng hơn cho cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát biên giới nhằm bảo hộ quyền SHCN. Mặt khác, cơ quan Hải quan cần linh hoạt trong xử lý vụ việc. Trường hợp hàng vi phạm có số lượng ít, dễ lẫn với các loại hàng khác, địa điểm phát hiện ở xa (hàng vi phạm ở biên giới phía Bắc nhưng chủ sở hữu quyền lại ở Cần Thơ) cần có cơ chế cho phép chủ sở hữu được xác định hàng thật - hàng giả trên cơ sở do cơ quan hải quan cung cấp.

Có chế tài xử lý thích hợp đối với các vi phạm của người thực thi cũng như người quản lý việc thực thi. Các cơ quan buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong vấn đề xử lý khiếu nại của các chủ thể bị xâm phạm phải bị xử lý kỷ luật, từ khiển trách đến việc chịu trách nhiệm một phần hậu quả do hành vi xâm phạm gây ra (nếu cố ý bao che cho hành vi xâm phạm). Bên cạnh đó cần có hình thức khen thưởng, động viên kịp thời các cơ quan thực thi SHCN.

Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt vẫn còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm. Luật SHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về mức phạt tiền ít nhất bằng giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được (khoản 4 Điều

214) được thay thế bằng “mức phạt do Chính phủ quy định phù hợp với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” (tối đa là 500 triệu đồng). Tuy nhiên, căn cứ để xác định mức phạt này còn chưa rõ ràng. Hơn nữa, trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, những hành vi vi phạm KDCN của một sản phẩm thường mang lại lợi nhuận rất cao như trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và phụ tùng thì việc quy định mức phạt tiền này còn quá thấp do vậy chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và KDCN nói riêng. Do vậy để xử phạt thích đáng các hành vi vi phạm quyền đối với KDCN, pháp luật cần nâng mức phạt lên gấp mười, hai mươi lần giá trị hàng hóa bị xâm phạm.

Ngoài ra, việc công bố công khai các bản án, quyết định của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp, các vi phạm về KDCN không chỉ là một biện pháp để thực thi yêu cầu minh bạch, công khai hóa của WTO mà còn là biện pháp mang

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí