tiến bộ và cái phản tiến bộ đang tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của từng cá nhân, cũng như từng hộ GĐ. Chính vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện những quy định làm cơ sở pháp lý ban hành đến từng cơ sở, từng hộ gia đình góp phần định hướng cho các gia đình trong quá trình tiếp nhận văn hóa một cách có chọn lọc dựa trên sự kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến phù hợp, đồng thời cải tạo, tiến đến xóa bỏ các các phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu, cũng như những luồng văn hóa tiêu cực, độc hại phương Tây du nhập. Hoàn thiện cơ chế chính sách trong việc xây dựng nếp sống văn minh khu dân cư, nhất là nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, đẩy lùy các tệ nạn xã hội.
Về thiết chế văn hóa: Hiện nay, thiết chế văn hóa ở một số địa phương trong Vùng còn thiếu và chưa đạt chuẩn, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho các hoạt động văn hóa của nhân dân. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, sân thể thể thao, nơi vui chơi cho trẻ em…, còn thiếu và chưa được đầu tư đúng mức. Do đó, để phục vụ tốt hơn cho việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của khu dân cư thì cần phải xây dựng thiết chế văn hóa đầy đủ và đồng bộ. Các tỉnh ĐBSH cần:
Đầu tư về kinh phí, nguồn lực cho việc xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư. Việc thiếu thốn về mặt kinh phí không những làm ảnh hưởng đến cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hóa tinh thần của địa phương mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của người dân trong quá trình tham gia các hoạt động phong trào, ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của các phong trào văn hóa cộng đồng. Ngoài kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước, chính quyền cần có chính sách khuyến khích xã hội hóa trong hoạt động này, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển môi trường văn hóa ở các địa phương tiến bộ và văn minh.
Tăng cường công tác quản lý trên lĩnh vực văn hóa. Để đời sống văn hóa của khu dân cư phát triển lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống và khắc phục những phong tục, tập quán, những nét văn hóa lạc hậu, phản tiến bộ thì cần phải tăng cường công tác quản lý hoạt động văn hóa. Do đó, ngoài việc hoàn thiện thể chế văn hóa thì cán bộ làm công
tác văn hóa cần phải phối hợp với lực lượng bảo vệ an ninh địa phương kiểm soát các hoạt động và phong trào văn hóa ở khu dân cư, xử lý triệt để những hoạt động văn hóa phản tiến bộ, đi ngược với giá trị văn hóa dân tộc, tác động xấu tới đời sống văn hóa khu dân cư.
Ba là, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Hiện nay, ở Việt Nam nói chung và vùng ĐBSH nói riêng, sự phát triển nền KTTT đã tác động đến đạo đức gia đình. Một mặt, tạo môi trường thuận lợi để phát huy các giá trị đạo đức Nho giáo trong xây dựng đạo đức gia đình. Thực tế cho thấy, khi điều kiện kinh tế gia đình no đủ thì việc thực hiện các chức năng của gia đình sẽ tốt hơn, các thành viên trong gia đình được quan tâm, chăm sóc đầy đủ, từ đó tạo nên sự gắn kết, bền chặt giữa các thành viên trong gia đình. Mặt khác, sự phát triển của nền KTTT cũng kéo theo những mặt trái của nó, tác động tiêu cực đến gia đình, làm cho các giá trị đạo đức gia đình truyền thống (trong đó có đạo đức Nho giáo) bị mai một. Mặt trái của nền KTTT đã dẫn đến lối sống thực dụng, tôn thờ giá trị vật chất, coi nhẹ giá trị tình cảm, làm cho những chuẩn mực đạo đức về sự “thủy chung” trong quan hệ vợ chồng; nền nếp “trên kính dưới nhường”, nhân từ - kính hiếu trong quan hệ ông bà, cha mẹ với con cháu; sự “thuận hòa”, đoàn kết giữa anh, chị, em trong gia đình, và lối sống tình nghĩa của gia đình với xóm giềng..., ngày càng lỏng lẻo, thiếu bền vững và xuống cấp. Hơn nữa, các mặt trái của nền KTTT còn tạo môi trường thuận lợi để một số ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo có điều kiện phát triển như: Tình trạng lợi dụng vấn đề “ báo hiếu”, tổ chức ma chay, cúng giỗ, mừng thọ cha mẹ một cách đình đám để thu lợi từ tiền lễ, tiền quà; hay tình trạng đề cao các mối quan hệ gia đình, quan hệ dòng tộc, với tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ”, dẫn đến hiện tượng lôi kéo anh em trong gia đình, họ hàng vào vào các vị trí công việc của cơ quan nhà nước (nhất là ở cấp cơ sở) cả khi họ không có đủ các điều kiện và năng lực… Điều này không những ảnh hưởng đến hiệu quả công việc mà nó còn kéo theo sự bè phái, cục bộ, mất đoàn kết và thiếu công bằng trong xã hội, tác động tiêu cực
Có thể bạn quan tâm!
- Bất Cập Giữa Yêu Cầu Phát Triển Kinh Tế, Văn Hóa Làm Tiền Đề Cho Việc Phát Huy Ảnh Hưởng Tích Cực, Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Đạo Đức
- Quan Điểm Cơ Bản Nhằm Phát Huy Ảnh Hưởng Tích Cực Và Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Vùng
- Đẩy Mạnh Phát Triển Kinh Tế, Văn Hóa Tạo Điều Kiện Phát Huy Ảnh Hưởng Tích Cực Và Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với
- Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 19
- Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 20
- Tiêu Chuẩn Danh Hiệu “Gia Đình Văn Hóa” (Điều 4)
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
đến việc xây dựng đời sống văn hóa, làng văn hóa, khu phố văn hóa, ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của xã hội.
Do vậy, để giải quyết vấn đề này, vùng ĐBSH cần tăng cường vai trò quản lý, điều tiết nền KTTT bằng các chủ trương, chính sách, quy định dựa trên chủ trương của Đảng và luật pháp của Nhà nước, nhưng linh hoạt, phù hợp với địa phương, nhằm kích thích tính năng động của con người trong hoạt động phát triển kinh tế để làm giàu cho gia đình, cho xã hội, tạo cơ sở, điều kiện để đạo đức phát triển cùng chiều với kinh tế. Chính quyền địa phương quản lý, điều tiết tốt nền KTTT sẽ hạn chế các mặt trái của nó tác động đến xã hội, đặc biệt là đến đạo đức gia đình, đến các mối quan hệ ứng xử giữa cha mẹ - con cái, vợ - chồng, anh - em trong gia đình, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển của gia đình và xã hội. Do vậy, trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội củaVùng, cần lấy con người làm mục tiêu, quan tâm đến lợi ích của từng gia đình, của mỗi cá nhân người lao động.
Cần chú trọng điều tiết lợi ích trong các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Hiện nay, ở nước ta nói chung, cũng như ở vùng ĐBSH nói riêng đang tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, dẫn đến lợi ích giữa các nhóm người trong xã hội cũng khác nhau, thậm chí xung đột nhau. Sự xung đột này, nếu không có sự kiểm soát sẽ dẫn đến những hành vi vi phạm đạo đức, chà đạp lên chuẩn mực đạo đức vì lợi ích kinh tế. Do vậy, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần thông qua pháp luật, thông qua các chính sách kinh tế, chính sách xã hội để điều tiết, giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích, khắc phục tối đa những bất bình đẳng trong kinh tế thị trường (theo định hương XHCN). Đây là cơ sở cho sự phát triển cùng chiều giữa kinh tế và đạo đức. Điều này sẽ làm cho lợi ích của cá nhân không tách rời lợi ích xã hội mà gắn bó mặt thiết, khi đó con người gắn bó hơn với nhau, thể hiện trong tình cảm, trong nghĩa vụ đạo đức, trong lương tâm... góp phần vào việc củng cố, xây dựng đạo đức trong gia đình.
Trong phát triển nền KTTT tất yếu sẽ dẫn đến bất công bằng xã hội, phân hóa giàu nghèo, “người giàu càng giàu lên, người nghèo càng nghèo đi” - đây là
điều trái ngược với mục tiêu, bản chất của chế độ XHCN mà chúng ta đang xây dựng. Do vậy, trong quá trình phát triển nền KTTT, các tỉnh Vùng ĐBSH cần chú trọng hạn chế tối đa sự phân hóa giàu nghèo, bất công bằng xã hội bằng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích những người nghèo, yếu thế có điều kiện, động lực tham gia sản xuất, nâng cao đồi sống. Bên cạnh đó, nhà nước, chính quyền các cấp cần thực hiện tốt hơn chính sách an sinh xã hội bằng việc dùng ngân sách từ thuế, đặc biệt từ thuế các doanh nghiệp.
4.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về gia đình gắn với phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc phát huy ảnh hưởng tích cực và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG đến các mối quan hệ đạo đức gia đình trong xây dựng GĐVH chưa đạt hiệu quả cao là do hoạt động quản lý của nhà nước về công tác gia đình và xây dựng GĐVH chưa tốt. Do vậy, trong thời gian tới, cần làm tốt công tác quản lý của Nhà nước về vấn đề này.
Quản lý nhà nước về gia đình là sự tác động và điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà nước đối với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của gia đình và hành vi của các thành viên trong gia đình nhằm bảo đảm để gia đình thực hiện đầy đủ các chức năng của mình và vận hành theo đúng mục tiêu, định hướng của Nhà nước mong muốn đạt đến, đó là xây dựng gia đình “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”. Trong thực tế, quá trình xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH dưới sự tác động của đạo đức Nho giáo, một mặt đã làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình gắn bó, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, góp phần phát triển, củng cố bền chặt các mối quan hệ trong gia đình, thực hiện tốt chức năng của gia đình, nhưng mặt khác, làm cho một bộ phận không nhỏ các gia đình vi phạm các quy định trong chuẩn mực đạo đức gia đình, vi phạm luật hôn nhân và gia đình, vi phạm quyền bình đẳng giới, quyền trẻ em, vi phạm pháp lệnh dân số… Nhưng điều đáng nói ở đây là các vi phạm đó không được xử lý kịp thời và thích đáng, do hoạt động quản lý nhà nước về gia đình của bộ
máy chính quyền địa phương chưa thực sự hiệu quả với tinh thần trách nhiệm cao. Do đó, trong thời gian tới, chính quyền các cấp của vùng ĐBSH cần đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước về gia đình trên các nội dung sau:
Thứ nhất, tăng cường quản lý nhà nước trong việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ gia đình.
Để xây dựng gia đình “hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc” thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải củng cố, phát triển các mối quan hệ trong gia đình. Đối với mối quan hệ vợ - chồng phải: tình nghĩa, thủy chung, tôn trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau và cùng có trách nhiệm đối với các thành viên trong gia đình; đối với mối quan hệ cha mẹ - con phải: yêu thương, kính hiếu; đối với mối quan hệ anh - em phải: hòa thuận, giúp đỡ. Để thực hiện tốt điều này, bên cạnh sự tự ý thức và điều chỉnh hành vi của các thành viên trong gia đình thì cần phải đẩy mạnh công tác quản lý của chính quyền địa phương. Trong công tác quản lý nhà nước, Chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần đề ra các chủ trương, chính sách, luật pháp và lãnh đạo, chỉ đạo các cấp (sở, quận, huyện (các cấp sở, quận, huyện lãnh đạo, chỉ đạo các xã, phường, thị trấn) cụ thể hóa nó vào trong đời sống hiện thực của gia đình để khơi dậy, phát huy những giá trị tích cực của ĐĐNG đồng thời khắc phục, triệt tiêu những ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG trong xây dựng các mối quan hệ trong gia đình. Các chủ trương, chính sách và các công việc cụ thể đó phải hướng tới điều chỉnh được các mối quan hệ trong gia đình. Các thành viên gia đình bên cạnh tự ý thức, tự nguyện thực hiện vai trò chức năng của mình thì cũng chịu sự quy định, chi phối bắt buộc bởi hệ thống pháp luật, các quy định của chính quyền để ràng buộc, điều chỉnh hành vi của các thành viên, nếu vi phạm sẽ bị xử lý một cách nghiêm khắc. Để điều chỉnh được hành vi, thái độ ứng xử của các thành viên trong gia đình thì các cấp chính quyền cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật xử phạt (vật chất và tinh thần) một cách cụ thể, chi tiết tùy thuộc vào mức độ, hành vi của người vi phạm. Những cấp, người được giao quyền thực hiện xử phạt cần nghiêm minh, khách quan, không bao che vì thân quen, dòng họ.
Thứ hai, tăng cường quản lý nhà nước với việc đảm bảo công bằng, bình đẳng trong gia đình.
Bất bình đẳng, bạo lực gia đình, đặc biệt trong các mối quan hệ gia đình ở vùng ĐBSH diễn ra xuất phát từ nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng tiêu cực của một số tư tưởng, thói quen xuất phát từ tư tưởng đạo đức Nho giáo xưa như: trọng nam khinh nữ, gia trưởng, quyền huynh thế phụ, phu xướng phụ tùy… Do vậy, để khắc phục điều này thì cần phải tăng cường công tác quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp chính quyền địa phương vùng ĐBSH, đặc biệt là các cán bộ trực tiếp làm công tác gia đình cần tăng cường tuyên truyền vận động các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những chủ hộ gia đình, những người già, có uy tín trong gia đình hiểu và tuân thủ pháp luật, không vi phạm luật hôn nhân và gia đình, pháp lệnh dân số, quyền trẻ em, quyền bình đẳng giới... Vận động dư luận xã hội ủng hộ việc phòng chống bao lực gia đình. Tư vấn cho các nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị bạo lực gia đình và có biệp pháp giúp đỡ thích hợp, kịp thời.
Phòng, chống và kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm, tình cảm, uy tín của các thành viên trong gia đình. Đặc biệt quan tâm bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đây là hai đối tượng dễ bị bạo lực gia đình nhất, do xuất phát từ ảnh hưởng của tư tưởng ĐĐNG trong gia đình, sự coi thường phụ nữ và sự mất dân chủ với trẻ em trong giáo dục gia đình mà dẫn tới tình trạng bạo lực gia đình với hai nhóm người này xảy ra cao. Việc tăng cường quản lý, giám sát phòng chống bạo lực gia đình là giải pháp quan trọng góp phần khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước trong việc xây dựng gia đình tiến bộ, văn minh.
Gia đình truyền thống xưa dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo luôn coi trọng việc có con trai và có nhiều con, với quan niệm “đông con hơn nhiều của”, có con trai để nối dõi tông đường. Tư tưởng này vẫn tồn tại ở không ít gia
đình người dân ĐBSH hiện nay. Điều này dẫn tới tình trạng đẻ nhiều, phá vỡ chính sách kế hoạch hóa gia đình, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước các cấp chính quyền địa phương cần phải phổ biến pháp lệnh dân số rộng rãi, sâu sát đến mọi thành gia đình bằng nhiều hình thức khác nhau, như: tuyên truyền miệng, lồng ghép trong các cuộc thi, hội thi về pháp luật, trong các hội diễn văn nghệ, trong các cuộc họp tổ dân phố, khu dân cư, họp xóm, trong sinh hoạt các hội, chi hội... Có biện pháp xử lý với các hộ gia đình vi phạm pháp lệnh dân số, đẻ nhiều, đẻ dày, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội đặt ra. Việc tăng cường quản lý nhà nước về vấn đề này sẽ góp phần khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG trong quan điểm về việc sinh con và vấn đề phân biệt giới tính trong sinh con.
Xây dựng quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, bảo đảm cho sự bình đẳng và tiến bộ của Phụ nữ theo Luật Bình đẵng giới. Các cấp chính quyền bằng nhiều hình thức, cách làm để giáo dục về vấn đề bình đẳng trong quan hệ vợ chồng, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau, cũng như trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình trong cộng đồng xã hội; cung cấp và trang bị kỹ năng sống cho các thành viên trong gia đình thông qua chương trình giáo dục đời sống gia đình; tư vấn, giúp đỡ, hoà giải khi có những mâu thuẫn xảy ra giữa các thành viên trong gia đình; vận động các thành viên và hộ gia đình tích cực thực hiện nếp sống văn minh; có chính sách và biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề bất bình đẳng, bạo lực trong gia đình… Điều này sẽ góp phần khắc phục tư tưởng mất dân chủ và thiếu bình đẳng trong gia đình do hệ lụy của đạo đức Nho giáo để lại.
4.2.4. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức gia đình gắn với phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa
Giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình hiện nay là một nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định trực tiếp nhất đến việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG đến các mối quan hệ gia đình trong xây dựng
GĐVH. Tuy nhiên, xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn ở vùng ĐBSH cho thấy, việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình gắn với việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG hiện nay còn chưa được chú trọng. Chính vì vậy, giải pháp đề ra là cần đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức gia đình, đặc biệt là giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra (xem mục 3.3.4). Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này thì cần làm tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho các thành viên trong gia đình về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình.
Chức năng giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, trong đó giáo dục đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người dù ở độ tuổi nào thì đều chịu tác động của môi trường sống, đặc biệt là môi trường giáo dục gia đình. Do vậy, yếu tố quan trọng hàng đầu là cần nâng cao nhận thức cho các thành viên gia đình - chủ thể xây dựng GĐVH hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức gia đình. Chỉ khi nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này thì họ mới có thái độ và trách nhiệm chủ động, tích cực trong việc tự giáo dục, hoàn thiện nhân cách bản thân, cũng như giáo dục đạo đức cho các thành viên trong gia đình.
Hiện nay, một số gia đình ở vùng ĐBSH, đặc biệt là các gia đình trẻ, không thực sự chú trọng đến việc giáo dục đạo đức gia đình, kể cả những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản quy định hành vi ứng xử tối thiểu giữa những người thân trong gia đình như: sự yêu thương và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; sự hiếu kính của con cái đối với cha mẹ, sự thủy chung, sẻ chia, nhường nhịn trong quan hệ vợ chồng; sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa anh, chị, em trong gia đình..., cũng không được quan tâm giáo dục do các bậc cha mẹ quá bận rộn với công việc mưu sinh hoặc đuổi theo danh vọng, địa vị mà bỏ bê trách nhiệm giáo dục gia đình. Một số gia đình có lối sống “Tây hóa”, tôn trọng quyền tự do cá nhân của các thành viên gia đình một cách thái quá dẫn đến tình trạng buông lỏng giáo dục, làm cho các thành viên gia đình (đặc biệt là những đứa trẻ) thiếu hiểu biết nghiêm trọng về cách ứng xử, cũng