kẻ làm tôi nước Việt. Vẻ đẹp của Tây Thi được xây dựng một cách hoàn chỉnh từ ngoại hình đến nội tâm, vẻ đẹp đầy khí phách của một liệt nữ.
Bên cạnh Tây Thi, Phạm Lãi cũng là một nhân vật mang tính cách điển hình. Trí dũng song toàn, trung quân, ái quốc, yêu say đắm Tây Thi nhưng sẵn sàng hy sinh tình riêng vì nghĩa lớn, đó là hình ảnh tiêu biểu của những nhân vật anh hùng của các triều đại phong kiến.
Nhưng cũng là nhân vật Phạm Lãi, trong Văn Chủng, Nam Xương lại xây dựng một tính cách khác. Vẫn là tướng quốc Phạm Lãi cơ trí, mưu lược, nhưng sự mưu lược, cơ trí lần này không phải để phò vua Câu Tiễn trị quốc bình thiên hạ, mà dùng để tự cứu mình, cứu Tây Thi ra khỏi tai hoạ do chính vua và hoàng hậu gây ra, khi đất nước thanh bình, vua không còn dùng đến tướng quốc nữa. Đó là cách ứng xử khôn ngoan của người ưu thời mẫn thế. Bi kịch của Văn Chủng tướng quân là câu trả lời cho sự lựa chọn đúng đắn của Phạm Lãi. Vậy là chỉ với một nguyên mẫu là nhân vật Phạm Lãi trong lịch sử, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã khai thác được hai nhân vật mang hai kiểu tính cách khác nhau, giải quyết được hai xung đột kịch khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch nhau.
Mặc dù Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc viết không nhiều, nhưng chỉ với một nhân vật điển hình, với một tính cách văn hoá điển hình là cử Lân, ông đã để lại dấu ấn trong làng kịch nói hiện đại - điều đó đã được khẳng định từ lâu. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông thông qua những nhân vật trên đây, chúng ta càng thấy rõ hơn tài năng và nhân cách của ông trong lĩnh vực nghệ thuật mới mẻ đối với văn học và sân khấu Việt Nam đầu thế kỷ XX.
2.3.4. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của nhân vật
Mặc dù đặc trưng của sự chiếm lĩnh nghệ thuật đối với hiện thực của kịch là hướng về việc tổ chức các hành động dẫn đến xung đột, thêm nữa Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc thuộc thế hệ tiên phong đặt nền móng cho nghệ thuật kịch nói Việt Nam nên “tay nghề” ông chưa xuất sắc như các tác
giả hiện đại sau này, nhưng ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, ông đã đạt được những thành công bước đầu. Nhân vật của ông, cho dù ở kịch ngắn một hồi hay các vở kịch dài hơi hơn, không phải lúc nào cũng thực hiện hành động theo sự sắp đặt khéo léo của tác giả, mà đứng trước những mâu thuẫn, xung đột, cũng phải trải qua các quá trình đấu tranh nội tâm, với những dằn vặt, đắn đo, suy nghĩ. Trong vở Chàng Ngốc, bản thân Ngốc sinh vốn được xây dựng với tính cách điển hình là ngốc nghếch và dốt nát, nhưng cũng trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm khi đứng trước mâu thuẫn giữa ước muốn của mình (là kết hôn với cô Cỏn), và sự sợ hãi cho tính mạng của ba người (vì Tình sinh nói nếu Ngốc sinh lấy cô Cỏn thì sẽ có ba người chết!). Cuộc đấu tranh nội tâm ấy có lúc bị Sỉn ông tác động, nên ước muốn kết hôn với cô Cỏn chiến thắng, Ngốc sinh đem tiền sính lễ đến nạp ngay cho Sỉn ông. Nhưng sau đó, Tình sinh lại gặp gỡ, thuyết phục (việc này không diễn ra công khai trên sân khấu, mà theo như dụng ý của Nam Xương, là loại “hoạt động bên trong”), nên kết cục, Ngốc sinh nhường cô Cỏn cho Tình sinh. Trong một vở hài kịch ngắn theo phương pháp cổ điển như vậy, xây dựng được tình huống kịch làm cho một nhân vật ngốc phải đấu tranh nội tâm và có được quyết định hợp tình hợp lý để “gỡ nút” cũng là một thành công của Nam Xương
Ở “Ông Tây An Nam” cử Lân, mâu thuẫn giữa thái độ quyết liệt chối bỏ dân tộc và ham muốn chinh phục Kim Ninh làm y phải tính toán trong suy nghĩ, dẫn đến hành động “nhượng bộ” làm “người An Nam”, và nói tiếng Việt. Nhưng khi không chinh phục được Kim Ninh thì ngay sau lời Kim Ninh khẳng định tình yêu với tham Tứ, y quay ngoắt lại thái độ vong bản ban đầu, chuyển sang nói toàn tiếng Pháp. Và y giải thích cho tình trạng bẽ bàng của mình bằng một cách lý giải rất quái quỉ: “Dis - leus que c‟est la temperature indigène qui m‟a déréglé l‟esprit!” (Bảo chúng rằng vì không khí thuộc địa làm cho tao đãng trí!). Diễn biến hiện thực - tâm lý khá phức tạp trong trường
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Đặc Điểm Về Nội Dung Tư Tưởng Của Kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.
- Tiếng Nói Cổ Vũ Cho Tình Yêu Và Hôn Nhân Tự Do, Phản Kháng Lễ Giáo Phong Kiến
- Sự Ảnh Hưởng Của Chủ Nghĩa Cổ Điển Và Luật “Ba Duy Nhất”
- Tình Cảm Tha Thiết Đối Với Các Giá Trị Cổ Truyền Của Dân Tộc, Sự Thương Cảm Sâu Sắc Với Các Số Phận Éo Le Trong Xã Hội.
- Một Số Đặc Điểm Nổi Bật Về Nghệ Thuật Truyện Ngắn Của Nam Xương
- Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của nam xương - nguyễn cát ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn) - 9
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
đoạn vừa rồi cho thấy sự kỹ lưỡng và sắc sảo của tác giả trong nghệ thuật xây dựng hành động kịch.
Trong bi kịch Tây Thi, quá trình khai thác diễn biến tâm lý hai nhân vật Phạm Lãi và Tây Thi diễn ra phức tạp hơn. Phạm Lãi, trong suốt vở kịch, luôn ở trong tâm trạng giằng xé giữa khát vọng tình yêu lứa đôi và sứ mệnh của kẻ sĩ trung quân ái quốc, và tâm trạng ấy luôn được đặt vào những tình huống phải lựa chọn một quyết định. Khi gặp Tây Thi giặt lụa ở làng Trữ La, Phạm Lãi đã đem lòng yêu thương, nhưng trách nhiệm đi tìm mỹ nhân dâng vua nước Ngô mà Câu Tiễn giao cho khiến Phạm Lãi phải đấu tranh tư tưởng: mang Tây Thi về cung hay dấu đi cho riêng mình? Nhất là khi Tây Thi oán trách Phạm Lãi: “Thế là những lời tình ái của quan tướng quốc nói với thiếp ban nãy, bây giờ đã thành lời bỏ đi! Thương ơi! Người còn mà lời đã ra thiên cổ! Ư, mà thiếp lầm rồi! Ngay người nữa, làm gì mà còn? Cái người nói với Tây Thi những lời êm đềm đó là một cậu học trò, một người du lịch, có đâu là một quan tướng quốc. Người ấy đã nhường chỗ cho một vị đại thần phong thể”. Phạm Lãi và Tây Thi bàn cách đưa Trịnh Đán thế chỗ Tây Thi. Nhưng rồi khi cả hai người cùng về cung, thì Tây Thi vẫn bị đem đi cống Ngô cùng Trịnh Đán. Diễn biến “phía trong sân khấu” cho thấy Phạm Lãi đã đấu tranh tư tưởng và quyết định dâng Tây Thi cho triều đình. Đến khi Câu Tiễn cử Phạm Lãi đưa Tây Thi và Trịnh Đán đi cống Ngô, hơn một năm được gần gũi nhau, mối quan hệ tình cảm giữa Tây Thi và Phạm Lãi đã quá sâu nặng, đến mức hai người gọi nhau là “lang quân - ái nương”, vậy mà vì nghĩa lớn, họ vẫn dứt tình.
Khai thác nhân vật ở chiều sâu tâm lý và các cung bậc tình cảm, để rồi đẩy xung đột kịch lên đỉnh điểm, đó là cái tài của tác giả.Tuy số tác phẩm kịch không nhiều, lại chủ yếu viết ở thời kỳ đầu của quá trình hình thành và phát triển kịch nói, nhưng bước đầu Nam Xương đã làm được điều ấy một cách khá thành công.
Tóm lại, qua nghiên cứu kịch bản văn học của Nam Xương, bước đầu chúng tôi nhận thấy những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, làm nên giá trị của kịch Nam Xương. Cụ thể là:
Về mặt nội dung: Bao trùm toàn bộ sự nghiệp kịch của Nam Xương là sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc của một nhà văn giàu lòng yêu nước. Từ việc phơi bày hiện thực xã hội với hai mặt sáng tối của nó trong thời kỳ đầu của quá trình hiện đại hoá, Nam Xương đã cổ vũ, ủng hộ những con người lương thiện, mang cốt cách và tinh thần dân tộc, đồng thời chỉ ra những kẻ tha hoá, vong bản, xa rời truyền thống văn hoá - đạo lý dân tộc, như những sản phẩm của một xã hội mà các chuẩn mực giá trị bị đảo lộn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh xã hội đang vận động theo xu hướng dân chủ hoá, tôn trọng các quyền cá nhân của con người, kịch Nam Xương cũng góp thêm tiếng nói cổ vũ cho tình yêu và hôn nhân tự do, phản kháng lễ giáo phong kiến. Ở một góc độ khác, từ việc khai thác các đề tài lịch sử, kịch Nam Xương mang tải những vấn đề mang tính thời cuộc, những suy ngẫm về cuộc đời và số phận con người đương thời, xung quanh việc nhìn nhận và giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và khả năng thực hiện lý tưởng, giữa khát vọng cá nhân và trách nhiệm xã hội.
Về mặt nghệ thuật, những ảnh hưởng của phương pháp sáng tác cổ điển và luật “ba duy nhất” đã đem lại thành công cho kịch Nam Xương trong thời kỳ “khai sơn phá thạch” của kịch nói Việt Nam. Cùng với đó, là những thành công bước đầu về các thủ pháp nghệ thuật xây dựng tình huống hài hước, qua đó thể hiện thái độ châm biếm, giễu nhại, phê phán, nghệ thuật khai thác và biểu hiện diễn biến tâm lý của nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mà nhân vật “Ông Tây An Nam” là thành công rực rỡ nhất.
Bằng tài năng, tâm huyết cùng với những nỗ lực một cách có ý thức để đạt được thành công trên đây, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có sự đóng góp to lớn vào quá trình xây dựng nền kịch nói Việt Nam ngay từ buổi ban đầu.
Chương III
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM XƯƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Như chúng tôi đã trình bày ở phần mở đầu, Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc không chỉ là một nhà viết kịch có tiếng, mà còn là một cây bút truyện ngắn. Tiếc rằng những truyện ngắn của ông chưa được công bố nhiều nên còn ít người biết đến. Bước đầu chúng tôi đã thống kê (có thể chưa thật đầy đủ), về truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Tổng số các tác phẩm chúng tôi có được là
37. Trong số đó, có 7 truyện đã được in thành tập truyện Bụi phồn hoa, chúng tôi sưu tầm được tại Thư viện Quốc gia. Toàn bộ bản thảo truyện ngắn (chưa xác định được là công bố hay chưa) của ông mà chúng tôi có được là do ông Nguyễn Hải Thoại, con trai của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, hiện sống tại Hà Nội, thay mặt gia đình cung cấp cùng với các bản thảo tiểu thuyết, kịch bản văn học mà chúng tôi đã trình bày ở chương I.
Những đề tài được quan tâm trong truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bao gồm: số phận các nhân vật anh hùng trong lịch sử, sự tha hoá của tầng lớp trí thức, quan lại đương thời, số phận bất hạnh và đầy éo le của những con người cùng khổ dưới chế độ thực dân phong kiến.
Chủ đề truyện ngắn Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc khá phong phú, trong đó nổi bật nhất là thông qua những câu chuyện lịch sử, thế sự, ông thể hiện tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, sự trân trọng các giá trị văn hoá- đạo lý tốt đẹp và tấm lòng nhân ái giữa người với người; thái độ phê phán sâu sắc đối với thói đạo đức giả và những trò lố bịch của lớp trí thức, quan chức bù nhìn trong xã hội đương thời.
Về nghệ thuật, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu sử dụng bút pháp hiện thực, ngoài ra ông tiếp tục phát huy sở trường hài kịch của mình qua bút pháp châm biếm, giễu nhại, và bước đầu thể nghiệm bút pháp kỳ ảo trong một số truyện ngắn. Những thủ pháp nghệ thuật biểu hiện vẫn theo lối truyền thống. Ngoại trừ một số tác phẩm như Ngôi đất công khanh, Một nhà cách mạng,…có sự thay đổi kết cấu, còn phần lớn các tác phẩm của ông chủ yếu vẫn được tổ chức theo lối kết cấu tuyến tính (theo trục thời gian), kết cấu hình tượng nhân vật theo lối song tuyến chính - tà, thiện - ác, chính diện - phản diện. Trong các bản thảo còn lại bút tích của ông như “viết cho Sài Gòn Mới”, “Kể cả truyện này, tôi đã hiến cho độc giả 35 truyện ngắn trên mặt báo Sài Gòn Mới”, cho thấy truyện ngắn của ông được sử dụng nhiều cho báo chí miền Nam sau 1954, thời kỳ ông vào Nam hoạt động dưới danh nghĩa trí thức di cư. Có lẽ do phục vụ nhu cầu in báo mà truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc thường hạn chế về dung lượng, về nghệ thuật thể hiện, và dường như ông vẫn chịu ảnh hưởng của truyện ngắn phục vụ công chúng bình dân trên báo chí trước năm 1945.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi bước đầu nhận thấy một số đặc điểm sau:
3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Là tác giả bắt đầu nghiệp sáng tác của mình ngay từ cuối giai đoạn văn học giao thời (tác phẩm đầu tiên ông công bố là vở kịch Chàng Ngốc, xuất bản năm 1930), với một sự nghiệp văn học luôn luôn đồng hành cùng với sự nghiệp cách mạng, nên trong truyện ngắn nói riêng và trong văn xuôi của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc nói chung, các giá trị, các vấn đề thuộc về nội dung được bộc lộ rất rõ ràng với một quan niệm văn học mang tính truyền thống “văn dĩ tải đạo”. Dường như ông dùng văn chương để bày tỏ, gửi gắm lòng yêu nước, sự trân trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh thần đấu
tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Trong bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001), viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa đã đưa ra những nhận xét khái quát về xu hướng sáng tác của ông: “Đọc tác phẩm của ông, có thể nhận ra xu hướng văn hóa - văn học của người viết là ý thức dân tộc, là sự hướng thiện, đồng cảm với con người”. [14]
Nghiên cứu kỹ lưỡng các truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, có thể thấy, tư tưởng sáng tác của ông được biểu hiện trong những chủ đề cụ thể và khá phong phú.
3.2.1. Tư tưởng yêu nước và ý thức tự hào về dân tộc gửi gắm qua các truyện ngắn về đề tài lịch sử.
Trong số 37 tác phẩm chúng tôi thống kê được, có 5 truyện được Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đề là “truyện dã sử” : Tráng sĩ Phù Đổng, Hoàng Trừu, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên . Dã sử là ký ức lịch sử được lưu truyền trong dân gian. Khác với chính sử do nhà nước tổ chức hoặc các học giả biên soạn và ấn hành. Từ điển Tiếng Việt 1992 của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “dã sử” là: “Lịch sử ghi chép những chuyện lưu truyền trong dân gian, do tư nhân viết, phân biệt với chính sử”. Nội dung có liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử. Theo cách hiểu trên đây thì Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã khai thác các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian về các sự kiện, nhân vật lịch sử, rồi bằng năng lực văn chương của mình, ông viết lại, hư cấu thêm tình tiết, đưa chúng trở thành tác phẩm văn học hiện đại, như tiểu thuyết, kịch và truyện ngắn.
Ngoài 5 truyện ngắn kể trên, còn 2 truyện Giao Long Sơn và Lưu Bình – Dương Lễ, tuy ông đề là “truyện ngắn” nhưng cũng lấy nhân vật, sự kiện lịch sử được lưu truyền trong dân gian làm nội dung sáng tác. Như vậy, truyện về
đề tài lịch sử chiếm 19% tổng số truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.
Là người chiến sĩ cách mạng, đấu tranh trên cả hai lĩnh vực - chính trị và nghệ thuật - nên các tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc nói chung, truyện ngắn về đề tài lịch sử nói riêng, luôn thấm đẫm tư tưởng yêu nước và ý thức tự hào về dân tộc. Trong hoàn cảnh của một người chiến sĩ tình báo, đóng vai trò là một trí thức làm việc trong bộ máy hành chính của kẻ địch, việc bày tỏ thái độ và tinh thần cách mạng qua văn chương thật không hề dễ dàng. Có lẽ đó là lý do mà Nguyễn Cát Ngạc lại có lựa chọn riêng của mình, đó là khéo léo chọn cách dùng “tích cũ” để gửi gắm ý chí, tình cảm với đất nước, với dân tộc. Hai tiểu thuyết Hùng Vương và Bách Việt, như ông nói, “Kẻ viết này dựa vào dã sử mà soạn ra, mong giúp đồng bào và các người yêu nước Việt Nam biết thêm tí chút về thời đại thượng cổ của nước nhà” (Lời nói đầu tiểu thuyết Bách Việt). Những truyện ngắn về đề tài lịch sử được ông dựng lại, về cơ bản thống nhất với những câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian. Đó là chuyện nàng công chúa Trần Huyền Chân đi làm dâu Chiêm thành, chuyện Nguyễn Trãi theo Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, chuyện người tráng sĩ làng Phù Đổng giúp nước giết giặc Ân rồi hoá Thánh bay về trời,
…Nhưng qua nghệ thuật xây dựng truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc, những câu chuyện dã sử ấy được hư cấu thêm về tình tiết, nhân vật được xây dựng với diện mạo, tâm lý, hành động cụ thể, sinh động, từ đó mang tải tư tưởng sáng tác của ông.
Thông qua việc dựng lại những câu chuyện vốn được lưu truyền một cách trân trọng trong lịch sử nước nhà, các truyện ngắn về đề tài lịch sử của ông là nơi chuyển tải một cách kín đáo và sâu sắc tư tưởng yêu nước, lòng tự hào tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Đó là tư tưởng chủ đạo, quán xuyến các truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc. Để chuyển tải được tư tưởng ấy, ông xây dựng một
loạt nhân vật lịch sử theo kiểu nhân vật loại hình. Đó là Huyền Trân công chúa, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Thị Lộ, Phù Đổng,... Các nhân vật này, ở những mức độ khác nhau, đều là những người biết cống hiến và hi sinh cho đất nước, cho dân tộc. Công chúa Huyền Trân trong Huyền Trân công chúa, là con út của Thái thượng hoàng Trần Nhân Tôn, em ruột vua Trần Anh Tôn. Thực hiện lời giao ước của cha mình với Thái tử Chế Mân, nàng lên đường vào làm dâu ở đất Chiêm Thành, rồi cũng vì danh dự, quyền lợi của triều đình vua cha và dân tộc mà nàng gạt nước mắt, từ biệt người mình yêu, quay về chấp nhận theo luật tục người Chiêm: hoặc chết thiêu theo chồng, hoặc tái giá với vua mới (Huyền Trân công chúa). Truyện được khai thác từ nguồn sử liệu, nhưng qua nghệ thuật truyện ngắn, Nguyễn Cát Ngạc đã tái hiện một không gian lịch sử khá đặc biệt, trong đó các nhân vật có những mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, xoay quanh ba rường cột lớn của lễ nghĩa Nho giáo: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng. Theo một số sử liệu thì vì hai người có tư tình với nhau trong thời gian thuyền rong ruổi trên biển nên một năm mới về đến kinh thành Thăng Long. Nhưng Nguyễn Cát Ngạc lại đưa ra một kết thúc hoàn toàn khác: Thuyền của Trần Khắc Chung đón được Huyền Trân để tránh cái chết trên giàn thiêu, giong ra biển thì quân Chiêm đuổi theo, yêu cầu Huyền Trân quay về. Nghĩ đến hôn ước cha đã giao kết, nghĩ đến món quà sính lễ sẽ phải trả lại, và nghĩ đến hàng triệu sinh linh hai nước sẽ phải đổ máu nếu sự việc này sẽ khơi nguồn nên một cuộc chiến tranh, Huyền Trân đành dứt áo quay về Chiêm, khước từ tình yêu của Trần Khắc Chung. Trong lúc leo thang lên thuyền Chiêm, nàng xót xa thân phận mình, cảm thương Trần Khắc Chung nên luống cuống, xảy chân ngã xuống biển.
Nhà văn sử dụng lối kết thúc mở cho truyện: “Hơn một trăm thuỷ thủ từ các thuyền nhảy xuống vớt nàng. Trong sử hay dã sử không thấy nói có vớt được không, và xác nàng có phải chất lên đàn hoả thiêu không? Chỉ biết châu Ô, châu Ri từ bấy, nói theo lối nói bây giờ, là một vấn đề đã được giải quyết.
Sau này nước ta còn nhiều phen tranh chiến với Chiêm, nhưng không phải vì Chiêm đòi hai châu đó. Hai châu Ô, Ri, người Chiêm coi là vĩnh viễn thuộc nước Việt Nam rồi”.
Nhà văn đồng thời là nhà viết kịch nổi tiếng đã chủ động chọn lối kết thúc của bi kịch cho câu chuyện này. Tuy vậy, việc để ngỏ cái chết của Huyền Trân lại không đem lại cảm giác bi luỵ cho người đọc. Bằng cách hướng người đọc đến trách nhiệm cao cả của Huyền Trân đối với nước, với dân mà hi sinh tình riêng, tác giả đã khéo léo xử lý các xung đột giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm xã hội của Huyền Trân, khiến cho câu chuyện bộc lộ rất rõ tư tưởng tác giả, đó là: cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng phải đặt trách nhiệm với đất nước, với nhân dân lên trên hết, bởi đó là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, cao cả nhất đối với con người yêu nước chân chính. Chính vì thế, nếu buộc phải có một lựa chọn thì hãy chọn nước, chọn dân - đó là sự lựa chọn đúng đắn nhất.
Trong truyện Tráng sĩ Phù Đổng, bằng lối dựng lại một câu chuyện hư cấu lịch sử từ truyền thuyết và di tích, Nguyễn Cát Ngạc muốn khơi trong người đọc niềm tin và niềm tự hào về một người anh hùng theo ông là có thật trong lịch sử, đã cùng cả cộng đồng dân tộc Việt chiến thắng ngoại xâm ngay từ thời thượng cổ. Nhà văn không chỉ kể lại truyền thuyết mà còn lý giải Phù Đổng Thiên vương ở góc độ hiện thực. Câu chuyện về tráng sĩ Phù đổng được ông viết lại, “theo các thuyết mới nhất về lịch sử thượng cổ nước ta, và dựa vào các di tích hiện tại”, thật sinh động và thú vị. Như cảnh bài binh bố trận của Phù Đổng để dụ giặc Ân làm người đọc thích thú. Về cái chết của tráng sĩ Phù Đổng, ông viết rằng do bị trúng tên độc. Sau khi Phù Đổng chết, vua Hùng cho phao tin là ông cưỡi ngựa bay về trời, vì thế sau này người Việt có truyền thuyết Phù Đổng Thiên vương.
Đáng chú ý là trong số 7 truyện về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc, có 2 truyện viết về người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới
Nguyễn Trãi. Đó là Trên chòi Khâm Thiên và Nguyễn Thị Lộ. Hai truyện này bổ sung cho nhau, làm nổi bật lên hình tượng một người anh hùng, tài cao đức trọng, đã vì đại hiếu mà hi sinh tất cả, như ở ngay ở phần mở đầu truyện Nguyễn Thị Lộ, tác giả Nguyễn Cát Ngạc đã viết: “Truyện này chứng tỏ tấm lòng hi sinh vô bờ của bậc công thần khai quốc triều Lê, hi sinh hết thảy ái tình, thân thích, danh dự, gia đình, hi sinh để tránh cho nước một cuộc nội loạn, do đó, một cuộc ngoại xâm, mà ông lượng rằng dân ta, vì vừa khó nhọc trong mười năm bình định dưới ngọn cờ Lê Lợi, khó lòng mà xua đuổi nổi”. Trên chòi Khâm Thiên là câu chuyện cảm động về cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật lỗi lạc làm nên cuộc kháng chiến chống quân Minh: Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Đây là một trong những truyện hay của ông, vượt qua lối kể chuyện thông thường (như trong Tráng sỹ Phù Đổng). Bắt đầu từ cuộc hành trình của Nguyễn Trãi theo cha là Nguyễn Phi Khanh, người bị quân Minh bắt đi đày ở Trung Quốc. Đến gần ải Nam Quan, nghe theo lời khuyên của cha “quay về đuổi giặc cứu nước, giải thoát dân ra khỏi vòng nô lệ, thế mới là có hiếu, chứ lẽo đẽo theo tao sang đất địch, để chết bên đó thì được ích gì?”, Nguyễn Trãi về dùi mài kinh sử, thi đỗ Thái học sinh (chúng tôi cho rằng Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có sự lầm lẫn ở chi tiết này, vì theo sử sách, Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh dưới triều nhà Hồ từ năm 1400, sau đó ra làm quan cùng cha mình; đến năm 1407 giặc Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang biên giới, Nguyễn Trãi đi theo để phụng dưỡng cha) rồi rủ Trần Nguyên Hãn đi chu du khắp nước để tìm hiền chúa. Hai người tìm đến Lê Lợi ở núi Lam Sơn - Thanh Hoá. Lúc đầu, hai người rất thất vọng và vỡ mộng, vì bắt gặp cảnh Lê Lợi ngồi thái giò, vừa thái vừa bốc ăn, trông rất phàm tục. Nhưng tình cờ bắt gặp khoảnh khắc Lê Lợi xem thiên văn trên chòi, Nguyễn Trãi nhận ra người mà mình có thể phò tá để đánh giặc. Cuộc gặp gỡ kỳ ngộ trên chòi Khâm Thiên ấy mở ra cuộc kháng chiến chống quân
Minh của dân tộc, mà mối quan hệ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” là rường cột làm nên thành công.
Nếu như Trên chòi Khâm Thiên là một sáng tạo của nhà văn khi mở ra một huyền thoại về cuộc hội ngộ của hai vị anh hùng dân tộc cùng chí hướng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo”, thì truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ lấy cốt truyện từ dã sử về chuyện tình của Nguyễn Trãi và “nàng bán chiếu gon” Nguyễn Thị Lộ cũng là một sáng tạo mới về chủ đề tư tưởng. Trong cả chính sử và dã sử, câu chuyện chỉ đơn thuần dừng ở việc kể lại tấn bi kịch của Nguyễn Trãi như hậu quả của một trò hãm hại xấu xa (do cái chết đột tử nhà vua Lê Thái Tôn ở Lệ Chi viên, mà bọn quần thần gian ác nhân thể vu cho Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ là thủ phạm giết vua nên phải chịu tội tru di tam tộc), thì với truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Cát Ngạc đã đề cao trách nhiệm cao cả của vị Khai quốc công thần Nguyễn Trãi với vận mệnh đất nước trước nguy nan mới do triều chính rối ren. Một lòng vì nghĩa lớn, vượt qua khuôn khổ lễ giáo phong kiến, nén lại nỗi đau phải dâng người thiếp yêu cho tên vua háo sắc, Nguyễn Trãi tìm cách đưa Nguyễn Thị Lộ vào cung để gần gũi và được Trần Thái Tôn sủng ái, từ đó giải cứu Thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao, người sẽ sinh ra Lê Thánh Tôn, vị minh quân sau này. Sự hi sinh vì đất nước của Nguyễn Trãi đạt đến mức tuyệt đỉnh là khi cái chết đã kề bên, ông vẫn sáng suốt đưa ra lời nhận định: “Bây giờ tình hình lại xoay ra thế khác. Con trai lớn của ta hiện đang đi sứ bên Tàu. Nó tài giỏi không kém gì ta. Nếu nó nghe ta bị chết oan, nó sẽ oán triều đình mà gây ra nội loạn. Nó mà phản triều đình thì thật là đất trời nghiêng ngửa! Đợi được đến minh quân kia lên ngôi Cửu Ngũ thì nước cũng đã hoang tàn rồi. Mà minh quân kia chưa chắc đã trị nổi con ta!”. Vì vậy, Nguyễn Trãi chủ động nói với toà thẩm sát về tội tru di tam tộc, và báo trước: “Nếu các người không giết được con ta thì nó giết các người đó” (Nguyễn Thị Lộ).