tiền BHXH, BHYT, BHTN kéo dài nhiều năm với số tiền lên tới hơn 4.4 tỷ đồng đến cơ quan Công an tỉnh để phối hợp điều tra, xử lý theo quy định của Bộ Luật Hình sự, nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho người lao động, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Hồ sơ vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN của 04 doanh nghiệp này cụ thể như sau:
Tính đến hết tháng 9/2018, Công ty TNHH TM-XNK TH&DV Hùng Nhơn (xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 1.134.069.203 đồng, thời gian nợ là 77 tháng; Công ty CP Hùng Nhơn (xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 656.563.963 đồng, thời gian nợ là 48 tháng; Công ty CP Hà Mỵ (xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú) nợ với số tiền là 2.457.233.759 đồng, thời gian nợ là 72 tháng; Công ty TNHH SX phân bón hữu cơ vi sinh Tân Đồng Tiến (xã Đồng Tiến, huyện Đồng Phú), nợ với số tiền là 1.134.069.203 đồng, thời gian nợ là 23 tháng [4]. Trước đó, BHXH tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp như: Hàng tháng, gửi thông báo đến các doanh nghiệp này về số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, đôn đốc, yêu cầu nộp tiền nợ theo quy định; tiến hành kiểm tra liên ngành, thanh tra chuyên ngành đối với 04 doanh nghiệp này nhưng các doanh nghiệp trên đã không khắc phục số tiền nợ mà còn cố tình tiếp tục chây ỳ kéo dài nhiều năm. Việc cố tình vi phạm, không nộp tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động.
Trước tình trạng lạm dụng chế độ, chính sách để trục lợi ngày càng phức tạp và số tiền nợ BHXH, BHTN, BHYT tăng, khả năng thu hồi khó, BHXH Việt Nam đã tăng cường phối hợp với các bộ, ngành nhằm thực hiện tốt công tác quản lý về BHXH, BHTN, BHYT, trong đó có phối hợp với Bộ Công an thực hiện nghiêm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm có dấu hiện tội phạm tại các Điều 214, Điều 215, Điều 216 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, loại tội phạm về bảo hiểm ngày càng có dấu hiệu gia tăng
và diễn biến hết sức phức tạp, ngoài các hành vi né tránh nghĩa vụ trích nộp BHXH, BHTN, BHYT, nợ quỹ BHXH tái diễn, còn phát sinh nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật khác, như: Các doanh nghiệp di chuyển khỏi nơi trú đóng hoặc doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh nhưng không tồn tại đúng với địa chỉ trên giấy phép, tình trạng doanh nghiệp cho người lao động tăng lương đột biến, sau đó lợi dụng các kẽ hở chính sách về BHXH để lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT; giả mạo hồ sơ, thẻ BHYT hoặc sử dụng thẻ BHYT được cấp khống, thẻ BHYT giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ BHYT của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ BHYT trái quy định… Do vậy, rất cần có các giải pháp hữu hiệu nhằm kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm đúng thời gian, trình tự, thủ tục, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi cho người lao động.
Với sự phối hợp tích cực của các cơ quan có thẩm quyền, ngày 15/8/2019 Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận BHXH, BHTN, Điều 215 về tội gian lận BHYT và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH, BHTN, BHYT cho người lao động của Bộ luật Hình sự trong đó giải thích về một số thuật ngữ được sử dụng trong hướng dẫn áp dụng các điều 214, 215 và 216 của Bộ luật Hình sự như: Trốn đóng bảo hiểm quy định tại Điều 216, Gian dối để không đóng, không đóng đầy đủ tiền BHXH, BHTN, BHYT quy định tại khoản 1 Điều 216, Không đóng tiền BHXH, BHTN, BHYT quy định tại khoản 1 Điều 216, Không đóng đầy đủ quy định tại khoản 1 Điều 216, ...; một số tình tiết định khung hình phạt (Có tính chất chuyên nghiệp, Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động, ...) hay vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể và xác định tư cách tố tụng của cơ quan BHXH.
Sự ra đời của Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để xử lý doanh nghiệp VPPL BHXH, để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, buộc chủ sử dụng lao động chấp hành đầy đủ quy định về pháp luật BHXH. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về BHXH, bảo đảm tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, người lao động được hưởng quyền lợi theo đúng quy định.
Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính và xử lý hình sự, các hành vi vi phạm về BHXH còn bị xử lý bởi các biện pháp xử lý khác, cụ thể:
Thứ nhất: Phối hợp với tổ chức công đoàn trong việc khởi kiện đơn vị nợ BHXH
Từ ngày 01/01/2016 khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, tổ chức công đoàn được trao quyền khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi VPPL về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, tập thể người lao động. Triển khai thực hiện quy định của pháp luật, tháng 9/2016 BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam ký Quy chế phối hợp số 3601/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 20/9/2016 về việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu trong việc khởi kiện ra Tòa án đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Theo đó, cơ quan BHXH có trách nhiệm cung cấp cho tổ chức công đoàn danh sách các đơn vị nợ BHXH cần khởi kiện, hồ sơ xác định nợ và các tài liệu khác có liên quan để phục vụ việc khởi kiện [25]. Qua đó đã đạt một số kết quả nhất định:
- Từ năm 2016-2018 cơ quan BHXH các cấp đã cung cấp 2.909 hồ sơ đơn vị sử dụng lao động nợ tiền BHXH cho công đoàn cùng cấp để thực hiện việc khởi kiện (riêng năm 2018 là 887 hồ sơ), Liên đoàn lao động tỉnh đã nộp 126 hồ sơ khởi kiện cho Tòa án, 04 vụ việc đã có Quyết định công nhận thỏa
thuận của Tòa án (hòa giải thành) với tổng số tiền đã trả nợ sau hòa giải là 1 tỷ 320 triệu đồng (riêng năm 2018 là 696 triệu đồng) [2]
- Cơ quan BHXH và tổ chức công đoàn đã tích cực phối hợp đôn đốc, thuyết phục các đơn vị sử dụng lao động trả nợ. Kết quả: Nhiều đơn vị đã chủ động khắc phục hết nợ hoặc cam kết trả nợ theo lộ trình. Tính đến cuối tháng 7/2018 đã có 986 đơn vị nợ tiền BHXH nộp hết số tiền nợ, 883 đơn vị đã khắc phục một phần số nợ với tổng số tiền thu được là 878 tỷ đồng (riêng năm 2018 là 176 tỷ đồng) [4].
- Liên đoàn lao động và BHXH một số tỉnh, thành phố đã chủ động tích cực thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ như: Thành lập Tổ giám sát và tiến hành giám sát tình hình doanh nghiệp nợ BHXH trước khi lập hồ sơ khởi kiện; thành lập Hội đồng chỉ đạo và thực hiện khởi kiện; gửi thư nhắc nợ; thành lập Đoàn thanh tra chuyên ngành; chuyển danh sách các đơn vị nợ cho cơ quan thuế để điều chỉnh chi phí hoạt động của doanh nghiệp khi quyết toán thuế hàng năm...
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, việc khởi kiện của tổ chức công đoàn đòi hỏi phải do công đoàn cơ sở khởi kiện hoặc phải có giấy ủy quyền của người lao động. Trên thực tế, việc khởi kiện của tổ chức công đoàn gặp rất nhiều khó khăn và hầu như chưa phát huy được hiệu quả. Một trong các nguyên nhân đó là do người được trao quyền khởi kiện lại không dám sử dụng quyền của mình (tổ chức công đoàn cơ sở không dám đứng ra khởi kiện hoặc ủy quyền cho công đoàn cấp trên khởi kiện; người lao động lại càng không dám ủy quyền cho tổ chức công đoàn kiện chủ doanh nghiệp của mình khi bản thân cần có công ăn việc làm). Do đó, thời gian này, mặc dù cơ quan BHXH đã tích cực hỗ trợ các tổ chức công đoàn về hồ sơ, tài liệu, số liệu phục vụ cho việc khởi kiện và đã chuyển hơn 2.909 hồ sơ cho tổ chức công đoàn nhưng số vụ mà tổ chức công đoàn khởi kiện còn rất khiêm tốn (126 hồ sơ) trong đó có tới 96 hồ sơ bị Tòa án trả lại với lý do thiếu giấy ủy quyền của người lao động hoặc giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở [2].
Thứ hai, tăng cường thực hiện công tác thanh tra chuyên ngành đóng, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH
Thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước. Công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Để tăng cường công tác phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi VPPL về BHXH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, trong những năm qua ngành BHXH đã tích cực thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016-2019, toàn ngành BHXH đã thực hiện 52.823 cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT tại 86.909 đơn vị, trong đó kiểm tra tại 41.453 đơn vị, thanh tra chuyên ngành tại 23.513 đơn vị và phối hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành tại 21.943 đơn vị, cụ thể:
Bảng 2.2: Số đơn vị được thanh tra, kiểm tra
của ngành BHXH (từ năm 2016 đến hết năm 2019)
Chỉ tiêu | Năm 2016 | Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | Tổng cộng | |
1 | Số cuộc TTKT | 10.046 | 8.740 | 16.083 | 18.954 | 53.823 |
2 | Số đơn vị TTKT | 13.828 | 19.402 | 25.343 | 28.336 | 86.909 |
- Kiểm tra: | 7.747 | 10.055 | 11.135 | 12.516 | 41.453 | |
+ Đơn vị nội bộ | 452 | 385 | 455 | 1.759 | 3.051 | |
+ Đơn vị sử dụng lao động | 2.639 | 6.427 | 7.940 | 7.900 | 24.906 | |
+ Cơ sở KCB | 876 | 752 | 702 | 592 | 2.922 | |
+ Đại lý thu, đại diện chi trả | 3.780 | 2.491 | 2.038 | 2.265 | 10.574 | |
- Thanh tra chuyên ngành | 1.174 | 4.006 | 8.447 | 9.886 | 23.513 | |
- Phối hợp liên ngành | 4.907 | 5.341 | 5.761 | 5.934 | 21.943 |
Có thể bạn quan tâm!
- Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 2
- Cấu Thành Của Vi Phạm Pháp Luật Về Bảo Hiểm Xã Hội
- Thực Trạng Các Quy Định Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm Trong Lĩnh Vực Bảo Hiểm Xã Hội
- Số Nợ Bảo Hiểm Xã Hội Từ Năm 2016 Đến Hết Năm 2019
- Yêu Cầu Hoàn Thiện Pháp Luật Và Nâng Cao Hiệu Quả Thực Hiện Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm Trong Lĩnh Vực Bảo Hiểm Xã Hội
- Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Về Bảo Hiểm Xã Hội
Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Qua công tác thanh tra, kiểm tra ngành BHXH đã phát hiện nhiều sai phạm trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, cụ thể:
- Phát hiện 176.394 lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH, BHTN, BHYT nhưng chưa tham gia hoặc đóng thiếu thời gian với số tiền phải truy đóng là 506.389 triệu đồng;
- Có 173.756 lao động đóng thiếu mức quy định với số tiền phải truy đóng là 238.549 triệu đồng.
- Tổng số tiền các đơn vị được thanh tra, kiểm tra nợ BHXH, BHTN, BHYT là trên 9.913.205 triệu đồng;
- Yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH số tiền 43.760 triệu đồng do chi sai quy định.
Bảng 2.3: Kết quả thực hiện công tác TTKT ngành BHXH từ năm 2016 đến hết năm 2019
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu | Năm 2016 | Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | Tổng cộng | |
1 | Số lao động chưa tham gia, đóng thiếu thời gian tham gia | 44.056 | 45.365 | 48.562 | 38.411 | 176.394 |
2 | Số tiền truy thu do chưa đóng, đóng thiếu thời gian | 24.039 | 97.223 | 140.768 | 244.359 | 506.389 |
3 | Số lao động đóng thiếu mức quy định | 29.645 | 50.734 | 48.689 | 44.688 | 173.756 |
4 | Số tiền truy thu do đóng thiếu mức | 9.869 | 47.349 | 54.987 | 126.344 | 238.549 |
5 | Số nợ đọng yêu cầu truy nộp | 194.061 | 2.352.108 | 3.815.230 | 3.251.806 | 9.613.205 |
6 | Số tiền phải thu hồi về quỹ BHXH | 8.316 | 9.628 | 12.104 | 13.712 | 43.760 |
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Thực tế cho thấy, hiệu quả công tác thu hồi, giảm nợ BHXH, BHTN, BHYT từ khi BHXH Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đóng đã được thể hiện bằng những con số thuyết phục:
Nếu năm 2015 khi chưa có chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT thì số nợ là 7,780,6 triệu đồng, tương ứng với 3,74% số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ giao thì sang năm 2016- 2019 số nợ đã giảm dần tương ứng với 3,64% năm 2016; 2,93% năm 2017; 1,7% năm 2018 và 1,6% năm 2019 so với số phải thu theo kế hoạch được Chính phủ giao [3]. Những con số trên là một minh chứng cho thấy quy định giao chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT cho cơ quan BHXH là hoàn toàn đúng đắn, mang lại hiệu quả cao, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm của các chủ sử dụng lao động.
Tuy nhiên hiện nay, ngoài thanh tra chuyên ngành đóng thì việc xử lý những vi phạm mới chỉ dừng ở mức độ phát hiện sai sót, kiến nghị thu hồi và kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước xử lý theo quy định của pháp luật, còn tình trạng kết luận sau kiểm tra của cơ quan BHXH không được các đơn vị thực hiện nghiêm túc, chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm của các chủ sử dụng lao động. Đây là một trong những lý do cơ bản, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện chế độ, chính sách BHXH.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Hiện nay, việc thực hiện pháp luật pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là bởi các hành vi vi phạm đang diễn ra ngày càng tinh vi và phức tạp, cụ thể:
Thứ nhất: Vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH
Có thể thấy, các hành vi VPPL về BHXH đang diễn ra khá phổ biến với tính chất ngày càng phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực thu BHXH. Tính từ năm 2007 đến hết năm 2013, số nợ BHXH, BHYT, BHTN tăng khá cao, nếu năm 2007 số nợ là 1.734 tỷ đồng thì đến hết năm 2013 tổng số nợ BHXH, BHYT,
BHTN đã trên 10,5 nghìn tỷ đồng; tính đến 31/7/2014, tổng số nợ BHXH, BHYT, BHTN là trên 11 nghìn tỷ đồng, quyền lợi của rất nhiều lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến người lao động khiếu nại, tố cáo, thậm chí có nơi còn đình công ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội [3].
Nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH biểu hiện ở các dạng hành vi chủ yếu:
- Trốn đóng BHXH đối với toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp (doanh nghiệp trốn đóng hoàn toàn)
Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên mới có trên 1/3 số doanh nghiệp trong đó tham gia BHXH cho người lao động. Mặc dù số liệu về doanh nghiệp đang tồn tại về pháp lý như trên và số liệu về doanh nghiệp đang thực sự tồn tại, hoạt động sản xuất kinh doanh, có sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH còn có khoảng cách lớn và cần được làm rò, nhưng với các con số trên cũng đã cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp tham gia BHXH còn thấp.
Việc trốn đóng BHXH thường tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp nhỏ như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, các văn phòng, hợp tác xã ... Nguyên nhân của thực trạng này là do một bộ phận người sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi tham gia BHXH, nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh khó khăn, dẫn đến việc chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đúng đúng trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đóng BHXH hay các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ hoặc không có người lao động thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, người làm việc theo hợp đồng lao động nhưng đang hưởng lương hưu hoặc làm việc theo nhiều hợp đồng lao động đang tham gia BHXH bắt buộc, ... Việc nắm bắt, quản lý biến động đối dượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn hạn