Giáo Viên Và Đội Ngũ Giáo Viên Tiểu Học

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN ÂM NHẠC TIỂU HỌC

THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC


1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới

Vấn đề quản lí bồi dưỡng năng lực cho giáo viên âm nhạc đã được các nhà hiền triết, triết gia cả phương Tây và phương Đông đề cập đến. Những quan niệm, tư tưởng của họ cho đến tận ngày nay vẫn được nhiều thế hệ tiếp thu và thể hiện vào công tác quản lí của mình, nhất là trong quản lí bồi dưỡng đội ngũ giáo viên âm nhạc phát triển và nâng cao năng lực của mình.

Ở phương Đông, tư tưởng về việc quản lí bồi dưỡng năng lực cho người thầy âm nhạc cũng được nhắc tới nhiều trong hệ thống triết lí sâu xa của Phật giáo (điều này có thể thấy rõ trong kinh Hoa Nghiêm - Avatamsaka sutra). Trong đó cũng chỉ ra cần phải tập trung vào quản lí ba vấn đề nhằm phát huy tính hiệu quả của Phật pháp và để khơi dậy được tâm giác ngộ ở người thầy, triết lí đó là:

- Hành vi đạo đức

- Thân cận Phật - Thiện Tri Thức

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

- Tâm thanh tịnh, chân thật - từ bi [6, tr. 37]

Các tác giả hiện đại ngày nay đã có những quan điểm mới trong nghiên cứu mang màu sắc riêng của mình, như luận án nghiên cứu của tác giả Jacob Easley (2004), Trường Đại học Pennsyvania - Mỹ Contextualizing pedagogical capacity: The nexus between teaching and learning (Mối quan hệ giữa dạy và học) đã đề cập về vấn đề quản lí bồi dưỡng năng lực cho giáo viên âm nhạc chính là việc làm cho năng lực này của họ luôn phải được nâng cao để phù hợp với việc đổi mới trong giảng dạy âm nhạc TH ông qua việc dựa trên khả năng và sự ảnh hưởng trực tiếp của nhà quản lí đến các mối quan hệ giữa giáo viên âm nhạc và các nhà quản lí [35, tr.108].

Quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên âm nhạc tiểu học quận Long Biên, thành phố Hà Nội theo định hướng phát triển năng lực - 3

Trên cương vị một nhà quản lí, tác giả Ricardo Del Campo, hiệu trưởng

Trường Đại học âm nhạc Sevilla - Tây Ban Nha, có bài tham luận “Giáo dục âm nhạc TH ế kỷ XXI”, trong đó tác giả đã nhấn mạnh rằng, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc là một yêu cầu tất yếu, đó cũng là những thách thức mới đặt ra cho các CBQL trong quản lí hoạt động bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc của thế kỷ XXI, mà cụ thể như là:

- Cần cải tiến quy trình làm việc, tìm ra cách thức quản lí phù hợp và nhạy bén, tự đặt mình vào vị trí hành động của thực tiễn thời đại.

- Thúc đẩy áp dụng phát triển công nghệ mới vào mô hình quản lí tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc.

- Vận dụng khả năng sáng tạo của mình để tìm ra hướng giải quyết trên cơ sở của những hoạt động hiện thời” [25, tr.2].

Trong cuộc hội thảo về giáo dục âm nhạc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức tại Seoul - Hàn Quốc (2006) các nhà quản lí về nghệ thuật của khu vực cũng đề xuất một lộ trình đối với việc quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc và được thông qua. Trong đó các nhà quản lí, các chuyên gia và các nhà nghiên cứu về âm nhạc đã chỉ ra sự cần thiết của việc đẩy mạnh các chiến lược và chính sách về bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc nhằm chuyển giao và giữ vững những giá trị thẩm mỹ và đặc tính văn hóa của các nước Châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời th c đẩy, khuyến khích đa dạng văn hóa, xây dựng xã hội hòa bình và thịnh vượng. Bên cạnh đó còn là những khó khăn và trở ngại đòi hỏi các nhà quản lí phải tìm ra giải pháp khắc phục, tạo điều kiện thực hiện những đề xuất một cách hiệu quả nhất, cho những người làm công tác quản lí ngành âm nhạc trong bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc.

Cũng với ý đó, tại hội nghị thường niên của Hiệp hội Giáo dục Âm nhạc Quốc tế - ISME (International Society for Music Education) 2008 - Australia, cũng thu được nhiều ý kiến đánh giá trong vấn đề quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc từ các chuyên gia trên thế giới, các ý kiến đều cho rằng muốn quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc đạt hiệu quả, thì trước hết nhà quản lí cần nắm rõ năng lực, trình độ của từng đối tượng và nhu cầu của họ cần bồi dưỡng những vấn đề gì, từ đó sẽ có mục tiêu định hướng bồi dưỡng.

Tại Liên Xô (cũ) các nhà nghiên cứu quản lí giáo dục như: M.I.Kônđacốp,

.V. Khuđominxki… đã rất quan tâm tới việc nâng cao phát triển năng lực và chất lượng của giáo viên âm nhạc TH ông qua các biện pháp quản lí có hiệu quả. Muốn nâng cao chất lượng dạy học phải có đội ngũ giáo viên âm nhạc có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đ ng đắn và hợp lí công tác quản lí bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên âm nhạc có năng lực.

Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng nâng cao năng lực và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ bắt buộc đối với người lao động sư phạm. Tùy theo thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lí giáo dục đề ra các phương thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo yêu cầu nhất định. Cụ thể là mỗi cơ sở giáo dục cử từ 3 đến 5 giáo viên được đào tạo lại một lần theo chuyên môn mới và tập trung nhiều vào đổi mới phương pháp dạy qua đó nâng cao năng lực cho giáo viên trong đó có giáo viên môn âm nhạc.

Tại Thái Lan, các nhà quản lí kiến nghị rằng, quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc cần tăng cường hoạt động tự bồi dưỡng và tập chung chủ yếu vào mở rộng thông tin tư vấn cho giáo viên âm nhạc để họ có thêm tư liệu.

Còn ở Hàn Quốc, việc quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc lại được tiến hành theo thiết kế theo mô hình Modul. Trong đó, xây dựng những nhóm đối tượng có chung đặc điểm để sau đó phân tích những yêu cầu bồi dưỡng thiết thực để tìm ra các nội dung quản lí sao cho phù hợp nhằm đem lại hiệu xuất cao.

1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam

Tư tưởng quản lí bồi dưỡng về NLDH cho người thầy âm nhạc đã xuất hiện lâu đời ở Việt Nam. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có đề cập tới việc quản lí bồi dưỡng năng lực truyền nghề (NLDH) của những trưởng phường hát - nhạc, trong đó có nói tới việc quản lí những người làm công tác truyền nghề (dạy học) cho các nhạc công của dàn nhạc cung đình vào thời nhà Lê (1437) nhằm hình thành bộ nhã nhạc trong cung đình. Công việc quản lí bồi dưỡng này đã

được vua Lê Thái Tông giao cho do hai ông Nguyễn Trãi và Lương Đăng phụ trách, với nhiều hoạt động như: đề ra phương cách cải tiến nhạc cụ, viết nhạc cho dàn nhạc cung đình, bồi dưỡng nâng cao năng lực truyền đạt của các trưởng phường trong hoạt động truyền thụ lại các bài tập múa, hát cho nghệ nhân... với mục đích lưu giữ nền nghệ thuật âm nhạc gắn liền với văn hóa dân tộc Việt Nam mà không bị pha trộn với dân tộc khác.

Cho đến thời vua Lê Thánh Tông thì việc quản lí hoạt động bồi dưỡng về NLDH đã được được nâng lên một bước và có bài bản hơn vì giai đoạn này đã có thêm Thự Nhã nhạc - Bộ Nhã nhạc (bộ phận chuyên trách về quản lí âm nhạc của triều đình đối với hoạt động truyền dạy của các trưởng phường hát), với vai trò định hướng âm nhạc dân gian, bên cạnh đó còn có Thự Đồng văn (chuyên tập âm luật để hòa nhạc) chịu trách nhiệm ghi chép, lưu giữ văn bản của các bộ nhã nhạc cung đình. Tuy đây dù mới chỉ là bước sơ khai và chưa đề cập rõ đến con đường hay cách thức cho việc quản lí bồi dưỡng NLDH cho người thầy âm nhạc như thế nào, nhưng tất cả những điều này đã minh chứng cho sự xuất hiện tiền đề vai trò của nhà quản lí trong việc hình thành công tác quản lí bồi dưỡng NLDH cho người thầy giảng dạy âm nhạc sau này.

Với cuốn “Âm nhạc mới Việt Nam tiến trình và thành tựu” do tác giả Tú Ngọc chủ biên cũng đã viết về sự ra đời của một số trường nghệ thuật và trung tâm đào tạo âm nhạc, trong đó có Trường Nghệ thuật Quân đội (1955), là bước khởi đầu đối với công tác quản lí chính quy, nhất là về vấn đề quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên âm nhạc, nó đã góp phần vào cho sự nghiệp của khoa học quản lí ngành âm nhạc chuyên nghiệp của nước Nhà theo những chuẩn mực của quốc tế khi đất nước Việt Nam giành độc lập [22, tr.230].

Vì vậy, để quản lí và định hướng cho sự phát triển VHNT của Việt Nam khi đã có một nền giáo dục mới hiện nay thì vấn đề quản lí bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên âm nhạc là mục tiêu thiết yếu và cần phải được đặc biệt quan tâm hơn bao giờ hết. Ngày 28/12/2001, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt thông tư về chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020, trong đó đề ra 7 nhóm giải pháp để đạt được mục tiêu chiến lược “Đổi mới chương trình giáo

dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là giải pháp trọng tâm, đổi mới quản lí giáo dục là khâu đột phá” [29, tr.35].

Những nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới đã chỉ ra rằng việc bồi dưỡng năng lực cho giáo viên âm nhạc ở mỗi thời điểm luôn được quan tâm và đề cập đến trong chiến lược phát triển giáo dục ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam giáo dục luôn là quốc sách hàng đầu, luôn được quan tâm đầu tư của nhà nước và của toàn xã hội, tuy nhiên đội ngũ giáo viên âm nhạc còn chưa được quan tâm, môn âm nhạc vẫn được coi là môn phụ, công tác bồi dưỡng phát triển năng lực cho đội ngũ giáo viên âm nhạc hầu như chưa được quan tâm nhiều, chưa có công trình khoa học, hay đề tài nào đề cập đến việc nghiên cứu công tác quản lí bồi dưỡng đội ngũ giáo viên âm nhạc TH theo định hướng phát triển năng lực. Do vậy Chính phủ, ngành giáo dục, cơ quan doanh nghiệp và người dân quan tâm đến giáo dục muốn có một nền giáo dục mà ở đó học sinh phát triển cả đức, trí, thể, mỹ thì cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến giáo dục.

Mặc dù hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên đã được thực hiện ở nhiều cấp, nhiều thời kỳ nhưng cho đến hiện nay, ch ng tôi chưa thấy có công trình nghiên cứu nào về quản lý hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên, đặc biệt là với giáo viên âm nhạc tiểu học. Do vậy, việc nghiên cứu quản lí hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên âm nhạc TH theo định hướng phát triển năng lực của tác giả sẽ góp phần vào sự phát triển của ngành giáo dục nói chung và môn âm nhạc nói riêng.

1.2. Một số khái niệm

1.2.1. Quản lí, quản lí giáo dục

1.2.1.1. Quản lí

Quản lí: Trong từ điển tiếng Việt “quản lí” là tổ chức điều khiển hoạt động của một đơn vị, một cơ quan [26, tr.1363].

Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa cho đến nay, có 3 yếu tố cơ bản là: nền tảng tri thức, sức lao động và quản lí. Trong đó, quản lí là sự kết hợp giữa tri thức với sức lao động. Khái niệm quản lí đã xuất hiện từ lâu và ngày càng hoàn thiện cùng với lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người.

Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “quản lí”. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu.

Henri Fayol (1841-1925), người háp, người đặt nền móng cho lí luận tổ chức cổ điển, cho rằng: “Quản lí tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Đây là khái niệm mang tính khái quát về chức năng quản lí.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến đối tượng bị quản lí trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [23, tr.10].

Xét với tư cách là một hành động, theo các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo: Quản lí là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Có rất nhiều tác giả với những định nghĩa khác nhau về quản lí tùy theo cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau như: góc độ tổ chức, quản lí, hành động…

Như vậy theo nghĩa rộng, quản lí là hoạt động có mục đích của con người, có thể hiểu quản lí là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra.

Cần phải hiểu khái niệm quản lí đầy đủ, bao hàm những khía cạnh sau:

- Đối tượng tác động của quản lí là một hệ thống hoàn chỉnh. Hệ thống đó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố, theo một quy luật nhất định; phù hợp với điều kiện khách quan.

- Quản lí bao giờ cũng là hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác định.

- Hệ thống quản lí gồm có 2 phân hệ. Đó là sự liên kết giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí, đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Tuy nhiên, quản lí có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lí và ngược lại.

- Tác động của quản lí thường mang tính chất tổng hợp, hệ thống tác động quản lí gồm nhiều giải pháp khác nhau nhằm đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu, và nếu xét về mặt công nghệ là sự vận động thông tin.

- Cơ sở của quản lí là các quy luật khách quan và điều kiện thực tiễn của môi trường.

- Mục tiêu cuối cùng của quản lí là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi ích của con người, bởi thực chất của quản lí là quản lí con người và vì lợi ích của con người.

1.2.1.2. Quản lí giáo dục

QLGD là một loại hình quản lí xã hội, tức là quản lí hoạt động giáo dục trong xã hội. Đã có một số định nghĩa tiêu biểu về QLGD như sau:

- Khuđôminxki .V. cho rằng: “Quản lí giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ”; còn M.I.Kônđakôp khẳng định: “Quản lí giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.

- Theo Đặng Quốc Bảo “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân” [3, tr.31]; còn theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [23, tr.7].

Như vậy, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm cho hệ thống giáo dục được quản lí, vận hành theo đúng đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các mục tiêu giáo dục đề ra.

1.2.2. Giáo viên và đội ngũ giáo viên tiểu học

- Giáo viên: Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học định nghĩa giáo viên như sau: “Người dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương đương ”[26, tr.395].

Tại Điều 70, Mục 1, Chương IV, Luật Giáo dục (2005) có quy định: "Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác".

Ngày 4 tháng 12 năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12, có ghi rõ: "Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là giáo viên".

- Đội ngũ: “Đội ngũ là tập hợp một số đông người, cùng chức năng nghề nghiệp thành một lực lượng ”. Theo từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học [26, tr.328].

Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi như: đội ngũ trí thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ giáo viên…

Tuy nhiên, ở một nghĩa chung nhất chúng ta hiểu là: Đội ngũ là tập hợp một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục đích xác định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần cụ thể.

Như vậy, khái niệm về đội ngũ có thể diễn đạt nhiều cách khác nhau, nhưng đều thống nhất: Đó là một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành một lực lượng để thực hiện mục đích cụ thể nào đó.

Từ những khái niệm trên cho thấy rõ: Đội ngũ giáo viên tiểu học là tập hợp những nhà giáo giảng dạy trong các trường, các cơ sở giáo dục bậc tiểu học. Đối tượng giảng dạy, giáo dục của họ là trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi.

Giáo viên tiểu học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường tiểu học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục tiểu học. Có trách nhiệm đảm bảo chất lượng giáo dục theo chương trình giáo dục, quản lí học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức.

Cùng với nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh, giáo viên tiểu học còn phải thường xuyên trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, gi p đỡ đồng nghiệp.

Tích cực học tập, rèn luyện để nâng cao sức khoẻ, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tham gia công tác phổ cập giáo dục. Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 05/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí