Các Giải Pháp Nhằm Điều Chỉnh Hoạt Động Thống Kê Du Lịch

tác động kinh tế của hoạt động du lịch một cách định lượng hóa thông qua tiêu dùng của du khách. Đây là một cách tiếp cận khoa học cho phép ta đánh giá đầy đủ hơn về hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam.‌

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Các giải pháp

3.1.1 Các giải pháp nhằm điều chỉnh hoạt động thống kê du lịch

3.1.1.1. Điều chỉnh nội dung thống kê du lịch

Để ứng dụng TSA thống kê hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam, cần bổ sung một số chỉ tiêu thống kê mà hiện nay còn thiếu như:

- Tổng số tiền mà du khách đi theo tour du lịch chi trả cho chuyến đi. Hiện nay, trong số liệu điều tra chi tiêu của du khách, Tổng cục Thống kê chỉ có số liệu đầy đủ nhất về chi tiêu của du khách tự tổ chức chuyến đi. Đối với du khách đi theo tour du lịch, chỉ có số tiền chi trả ngoài tour. Thực trạng này dẫn đến việc phải ước lượng trong quá trình tính toán, dễ dẫn đến kết quả không chính xác.

- Đối tượng khách tham quan trong ngày, ở tại nhà ở thứ hai hoặc nhà của bạn bè họ hàng. Đây là đối tượng khách chưa được tính đến trong quá trình điều tra, nhưng theo WTTC thì các tập khách này cũng đóng góp không nhỏ trong cầu tiêu dùng. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng TSA, nên bổ sung điều tra chọn mẫu đối tượng này tại điểm đến.

- Số liệu đầu tư và chi tiêu của chính phủ chỉ được thống kê chủ yếu trong khối khách sạn nhà hàng, cần bổ sung và tổng hợp được đầy đủ về đầu tư và chi tiêu của chính phủ về du lịch nói chung (bao gồm đối với cả các hạng mục: khu vui chơi giải trí, Vườn Quốc gia, bảo tàng, công viên ... ). Bên cạnh đó, số liệu thuế cũng như xuất nhập khẩu trong lĩnh vực du lịch hầu như chưa có.

Ngoài ra, trong quá trình thống kê cũng cần xác định rõ những tiêu chí và các sản phẩm đặc trưng của tiêu dùng du lịch. Hiện nay, việc lựa chọn sản phẩm nào còn phụ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của từng quốc gia (ví dụ, chưa nên đưa y tế và giáo dục vào danh mục sản phẩm đặc trưng của du lịch Việt Nam vì lĩnh vực này ở nước ta chưa phát triển, tương tự như vậy đối với sản phẩm nhà ở thứ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

hai dành cho mục đích du lịch). Nguồn thông tin về tiêu dùng của tổ chức (nhất là chi tiêu nghiệp đoàn) tại nước ta hiện nay cũng chưa được xác định rõ.

3.1.1.2. Điều chỉnh phương pháp thống kê du lịch

Xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm 2005 theo quan điểm tiếp cận TSA - 9

Ở nước ta hiện nay, phương pháp chủ yếu để có thể xác định giá trị tiêu dùng và một số đặc điểm của du khách vẫn là phương pháp điều tra chọn mẫu. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí không quá tốn kém, kết quả có độ chính xác cao. Tuy nhiên trong quá trình tiến hành phương pháp này cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Cần tuân thủ tính quy chuẩn trong quá trình tiến hành

Khi thực hiện cuộc điều tra chọn mẫu, cần phải tuân thủ theo trình tự các bước một cách chặt chẽ từ khâu chuẩn bị (xác định mục tiêu, xây dựng phương án...) cho đến tiến hành điều tra và xử lý số liệu.

- Cần đưa ra được phương án điều tra, đảm bảo các yếu tố cơ bản của điều tra chọn mẫu

Việc xây dựng phương án điều tra chuẩn phải bao gồm các yêu cầu như xác định rõ đối tượng, lựa chọn không gian, thời gian điều tra phù hợp, cách thức tổ chức. Về cỡ mẫu và cơ cấu mẫu, cần phù hợp với kinh phí và đảm bảo phạm vi sai số cho phép. Cần xem xét cơ cấu khách về quốc tịch, châu lục, giữa khách nội địa và quốc tế, giữa khách lưu trú ngắn ngày và dài ngày... Về phiếu điều tra, cần lưu ý : nội dung nên ngắn gọn, hỏi trực tiếp vấn đề điều tra, tránh sử dụng từ chuyên môn, đa nghĩa. Hệ thống câu hỏi trình bày theo khoản mục rõ ràng, có hướng dẫn tỉ mỉ. Đội ngũ điều tra viên và giám sát viên phải được lựa chọn, huấn luyện kỹ, đảm bảo năng lực cũng như trách nhiệm đối với công việc. Đối với điều tra chi tiêu của du khách, nên phát phiếu khi họ sắp kết thúc chuyến đi để thu được số liệu chính xác nhất. Đôi khi có thể sử dụng câu hỏi phụ để xác định độ tin cậy của người trả lời. Trong tương lai, khi tiến hành thêm một số cuộc điều tra về chi tiêu du lịch thì

nên có biểu thức để điều chỉnh độ trượt giá, nhằm đảm bảo độ chính xác cao khi so sánh sự thay đổi về giá trị tiêu dùng của du khách qua các năm.

3.1.1.3. Điều chỉnh tổ chức công tác thống kê du lịch

Năm 2005, Tổng cục Thống kê đã tổ chức điều tra chọn mẫu tiêu dùng của du khách ở 26 tỉnh thành (đối với khách nội địa) và 12 tỉnh thành (đối với khách quốc tế). Trong tương lai, cần mở rộng quy mô điều tra ra một số khu vực khác, thời gian điều tra cũng cần kéo dài hơn nhằm đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin (Năm 2005, Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra chi tiêu của du khách trong 20 ngày, từ 10/7 đến 30/7/2005, tuy nhiên đối với một số tỉnh thành và một số loại hình du lịch, có thể thời gian này lại không thu hút nhiều khách).

3.1.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của du lịch

3.1.2.1. Quản lý Nhà nước

Quản lý Nhà nước về du lịch bao gồm các mặt chủ yếu:

- Ban hành các văn bản pháp luật về du lịch.

- Tổ chức hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các văn bản luật, các quy chế, chế độ, tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật, quy trình quy phạm trong hoạt động du lịch.

- Tổ chức tuyên truyền quảng bá du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, hợp tác quốc tế, bảo vệ môi trường du lịch.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí các vi phạm pháp luật trong hoạt động du lịch, thúc đẩy du lịch phát triển theo định hướng chung của đất nước, hạn chế đi đến xóa bỏ các hiện tượng không lành mạnh, mặt trái của sự phát triển du lịch (như tệ nạn xã hội ...)

Đối với các mặt hoạt động nói trên, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ song cũng không thể phủ nhận những tồn tại gây cản trở không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của ngành du lịch.

Đối với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách phát triển du lịch, Luật Du lịch Việt Nam ra đời năm 2005 thực sự là một bước tiến. Sự ra đời của Luật Du lịch góp phần đảm bảo quyền lợi cho khách du lịch, giúp họ có đảm bảo pháp lý để được hưởng những dịch vụ xứng đáng, đưa hoạt động kinh doanh vào nền nếp, là môi trường pháp lý định hướng cho các doanh nghiệp du lịch phát triển, góp phần ngăn chặn những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống kinh tế - xã hội và môi trường. Việc ra đời Luật Du lịch Việt Nam phù hợp với tiến trình phát triển chung của hoạt động du lịch trên thế giới. Luật Du lịch có hiệu lực từ tháng 1/2006 và đang được triển khai thực hiện trong cả nước, là văn bản pháp lý cao nhất diều chỉnh các quan hệ trong hoạt động du lịch. Nhận thức và những quan điểm về du lịch cũng được nâng cao, gắn với công tác đổi mới bộ máy, năng lực quản lý Nhà nước về du lịch, kiện toàn hệ thống kinh doanh, thích nghi dần với cơ chế quản lý mới. Hoạt động du lịch hiện thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, Luật cũng cần được thường xuyên điều chỉnh bổ sung, có những văn bản hướng dẫn cho phù hợp với thực tiễn phát triển du lịch của đất nước và thế giới. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật Lữ hành, Luật Vận chuyển khách du lịch, Luật Nhà hàng ...

Công tác thanh tra, kiểm soát đối với các hoạt động du lịch nhằm thực hiện quản lý Nhà nước về du lịch. Đó là phương thức quan trọng nhằm đảm bảo luật pháp, quy chế, tăng cường kỉ cưong trong hoạt động kinh doanh du lịch, giúp không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo cho sự phát triển du lịch lành mạnh và bền vững.

Đến nay, hầu hết các nước có hoạt động du lịch phát triển đều có hệ thống thanh tra chuyên ngành du lịch. Họ tổ chức hoạt động thanh tra du lịch khá chặt chẽ. Ví dụ Thái Lan có đội ngũ cảnh sát du lịch với chức năng thanh tra việc hành nghề của hướng dẫn viên du lịch, các lái xe chuyên chở du khách... Đối với dịch vụ

lữ hành, công tác thanh tra xem xét giữa quảng cáo với thực tế phục vụ có phù hợp hay không, tránh tình trạng lừa đảo, “treo đầu dê bán thịt chó” đối với du khách. Đối với khách sạn cũng được thanh tra trên nhiều lĩnh vực: tiêu chuẩn vật chất kỹ thuật, nhân viên phục vụ, vệ sinh môi trường ...

Rõ ràng, chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam so với yêu cầu của du khách còn có nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó công tác thanh tra trong quản lý Nhà nước là mặt rất quan trọng. Ngoài ra, công tác thanh tra chuyên ngành du lịch cũng cần phát hiện những nét đặc thù của ngành và đề nghị với cơ quan có thẩm quyền giải quyết như: ban hành tỉ lệ khấu hao thích hợp đối với tài sản cố định, chi phí lương thưởng đối với hướng dẫn viên dẫn khách theo tour, các chi phí, phụ cấp, thang bậc lương dành cho cán bộ, công nhân viên chức ngành du lịch ...

Công tác thanh tra chuyên ngành du lịch là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển du lịch ở nước ta trước mắt cũng như lâu dài.

3.1.2.2. Đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

Một đất nước muốn phát triển kinh tế, trước hết phải xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong đó, cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc, công trình công cộng... đóng vai trò nền móng. Đây là yếu tố rất cơ bản, không chỉ riêng cho ngành du lịch mà còn cho bất cứ một ngành kinh tế nào muốn phát triển. Du lịch càng phát triển, càng đòi hỏi các phương tiện giao thông, thông tin liên lạc nâng lên trình độ hiện đại. Hiện nay, ở nhiều nước công nghiệp phát triển, công nghệ thông tin du lịch đang được ứng dụng phổ biến như Mỹ, Anh, Pháp, Đức... Ở các nước nói trên, nhờ đưa công nghệ thông tin vào du lịch, giúp tạo ra những sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn, phong phú và có giá trị kinh tế cao.

Ngoài cơ sở hạ tầng chung của xã hội, ngành du lịch còn có cơ sở vật chất kỹ thuật đặc thù như khách sạn, nhà hàng, các điểm, khu du lịch, khu vui chơi giải

trí vv... Những yếu tố này rất quan trọng, là bộ phận trực tiếp và thường xuyên đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của du khách. Du lịch càng phát triển thì cơ sở vật chất kỹ thuật càng phải được nâng cao và tính chất đồng bộ của nó phải được thể hiện một cách rõ nét trong việc đầu tư xây dựng nhằm tránh hiện tượng lãng phí, đồng thời giúp đa dạng hóa sản phẩm du lịch.

Lấy ví dụ đối với hệ thống khách sạn. Ở Việt Nam, hệ thống khách sạn nói riêng và cơ sở lưu trú nói chung trong những năm gần đây phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô, hình thức sở hữu và chất lượng dịch vụ. Việt Nam hiện có khoảng 6000 khách sạn với tổng số hơn 130 nghìn buồng, phòng, trong đó có 2575 khách sạn được xếp tiêu chuẩn sao [2;6]. Tuy nhiên khoảng 80% số khách sạn hiện tập trung tại một số trung tâm du lịch lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu. Quy mô còn nhó khiến các khách sạn gặp nhiều hạn chế trong đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ quản lý hiện đại, nghiên cứu thị trường và quảng bá sản phẩm. Bên cạnh đó, thị trường vốn của nước ta chưa phát triển, lãi suất tiền cho vay cao và cơ chế tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng hạn chế là rào cản khiến nhiều khách sạn khó mở rộng quy mô xây dựng, nâng cấp tiện nghi và mở mang dịch vụ. Các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn còn gặp nhiều khó khăn như: thiếu đất và mặt bằng để mở rộng quy mô buồng ngủ, phòng hội nghị và các dịch vụ bổ trợ; khó tiếp cận các nguồn thông tin thị trường đáng tin cậy để phục vụ việc đề ra các chiến lược kinh doanh sát với tình hình thực tế. Chi phí đầu vào: điện, nước, viễn thông, thực phẩm còn cao và thiếu ổn định, ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định đầu tư và kết quả đầu tư đối với lĩnh vực này.

Từ thực trạng nêu trên, có thể thấy, để phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống khách sạn và cơ sở lưu trú Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cả trong và ngoài nước đầu tư xây dựng đối với lĩnh vực này dưới nhiều hình thức: đầu tư trực tiếp, liên doanh, liên kết... Nên chăng, Tổng cục Du lịch cần có một hệ thống cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp khách sạn về thị trường cung - cầu dựa trên phương pháp thống kê thống nhất, phù hợp với cách làm của nhiều nước trong khu vực, đáng tin cậy để làm chuẩn so sánh, đối chiếu; từng bước thiết lập hệ thống tiêu chuẩn quốc gia nhằm quản lý chất lượng sản phẩm khách sạn; xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn: khách sạn “xanh”, vệ sinh an toàn thực phẩm, đầu tư thích đáng phát triển nguồn nhân lực, xây dựng một đội ngũ lao động, quản lý có năng lực, phẩm chất cần thiết. Về phía doanh nghiệp, cần nỗ lực tập trung vào các lĩnh vực: đầu tư tạo sản phẩm cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ phù hợp từng thị trường mục tiêu, tìm giải pháp mở rộng thị trường, tiết kiệm chi phí, có chính sách thu hút cán bộ quản lý nghiệp vụ giỏi và có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực kế cận lâu dài.

3.1.2.3. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm

Sản phẩm du lịch có tính chất giới hạn, nhưng nhu cầu của con người nói chung và khách du lịch nói riêng lại luôn thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi điểm du lịch lại có những nguồn tài nguyên du lịch rất khác nhau. Các quốc gia, các địa phương dựa vào lợi thế so sánh đó tạo nên những sản phẩm độc đáo, đa dạng, hấp dẫn du khách. Kinh nghiệm ở một số nước sử dụng rất nhiều hình thức phục vụ du khách với các sản phẩm du lịch độc đáo nên đã thu hút số lượng du khách quốc tế ngày một đông. Tại Thái Lan, Singapore hay Malaysia, có các cửa hàng, siêu thị miễn thuế (duty - free), bán từ các sản phẩm thủ công truyền thống cho đến các loại “hàng hiệu” nổi tiếng trên thế giới, các sản phẩm thời trang của các nhà thiết kế tên tuổi vv..., thu hút rất đông lượng khách du lịch kết hợp mua sắm.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 27/06/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí