Xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm 2005 theo quan điểm tiếp cận TSA - 11

Như vậy, tạo dựng được một đội ngũ nhân viên tươi cười, lịch sự, mau lẹ và chân thành, kết hợp với sự hiếu khách của cả cộng đồng sẽ là lợi thế xóa đi khoảng cách về công nghệ với các nước khác, tạo thuận lợi cho du lịch Việt Nam cạnh tranh và đứng vững trên thị trường thế giới.

c. Củng cố, mở rộng các trường đại học và đào tạo nghề về du lịch

Một là, Nhà nước cần tiến hành thanh tra, rà soát lại các trường đào tạo về du lịch, khách sạn trong cả nước để chấn chỉnh lại các trường lớp mở ra không đúng quy định, không đảm bảo chất lượng; kiện toàn, củng cố, sắp xếp lại những trường lớp đào tạo, bồi dưỡng về du lịch và khách sạn; thực hiện thanh tra giáo dục để đưa công tác giáo dục và đào tạo vào nề nếp, có chất lượng cao; những trường có đầy đủ các điều kiện mới được cấp giấy phép đào tạo.

Hai là, Nhà nước cần có biện pháp đảm bảo tăng quyền tự chủ cho các trường đại học và dạy nghề du lịch, tăng cường tính tự chịu trách nhiệm. Do nhu cầu đào tạo lớn như hiện nay, các trường không thể đảm nhận hết công tác đào tạo và đào tạo lại, vì thế trước mắt Nhà nước tiếp tục cho phép mở rộng quy mô các cơ sở đào tạo hiện có, mở rộng thêm một số cơ sở mới, đa dạng hóa các loại hình và tiến tới xã hội hóa công tác đào tạo

Về quan điểm, việc đào tạo có thể do các trường công lập và dân lập đảm nhiệm nhưng việc hoạch định kế hoạch đào tạo và kiểm tra đánh giá chất lượng đào tạo phải được quản lý trong một hệ thống tiêu chuẩn thống nhất về chuyên môn chung cho toàn quốc.

Về phân cấp đào tạo, các trường có khoa du lịch hoặc trường dạy nghề thuộc Nhà nước sẽ chủ yếu đào tạo cán bộ quản lý Nhà nước về du lịch hoặc đốc công giám sát ở cơ sở; việc đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ du lịch và các kỹ năng khác do chính các khách sạn, công ty kinh doanh chủ động tổ chức có sự trợ giúp về nghiệp vụ của các trường và các chuyên gia.

Về chương trình và nội dung đào tạo, cần chuẩn hóa nội dung đào tạo và đẩy lên ngang tiêu chuẩn quốc tế để tạo điều kiện cho việc hội nhập khu vực và thế giới được thuận lợi hơn.

Muốn đạt được các nội dung trên, trong quản lý ví mô cần phải có sự phối hợp giữa Bộ Giáo dục - Đào tạo, Tổng cục Du lịch và các cấp bộ ngành liên quan trong việc rà soát, loại bỏ những nội dung chương trình đào tạo chưa thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, tăng cường năng lực lành nghề, năng lực tự học của người học phù hợp với yêu cầu của sự phát triển của ngành du lịch và hoàn cảnh Việt Nam trong từng giai đoạn, tiến tới hội nhập với chương trình đào tạo của các nước trong khu vực, đồng thời cũng phải tính tới chương trình đào tạo liên thông, cũng như chương trình cho công tác đào tạo lại của các cơ sở đào tạo. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ các trường chủ động, tự đổi mới về quy trình, nội dung và phương pháp tiên tiến trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhưng vẫn đảm bảo tính truyền thống, kế thừa, phát triển trên một nền học vấn rộng. Các trường cũng cần tính toán chương trình đào tạo sao cho phù hợp về thời gian và nhu cầu thực tiễn để có thể làm tốt công tác đào tạo lại, giúp học viên bố trí được công việc ở cơ quan, quyết định tham dự các lớp học và cảm thấy có tác dụng. Nhà nước cũng khuyến khích các trường thu hút các chuyên gia đầu ngành và tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác quốc tế để nghiên cứu, thiết kế, xây dựng khung chương trình đào tạo du lịch, tổ chức biên soạn giáo trình và thống nhất ban hành. Nội dung của giáo trình, tài liệu biên soạn cần đảm bảo nguyên tắc: cơ bản, hiện đại, nghĩa là giáo trình phải trang bị được những kiến thức cơ bản nhất cho người học, đồng thời tiếp cận với xu thế phát triển của du lịch và khoa học du lịch của thế giới và khu vực.

d. Đa dạng hóa và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực cho đào tạo lao động trong kinh doanh du lịch

Để làm tốt được nội dung này, Nhà nước cần có mô hình phân bổ ngân sách thích hợp, chuyển từ mô hình hành chính sang mô hình phân bổ trọn gói nhằm khuyến khích các trường nâng cao hiệu quả đào tạo như giảm chi phí đơn vị và nâng cao chất lượng cũng như chuyển từ phương thức kiểm soát chi sang phương thức giám sát chi. Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị cho dạy học trên cơ sở những chuẩn quôc gia về trang thiết bị tối thiểu đối với từng ngành nghề. Bộ Giáo dục và Đào tạo, phối hợp với Tổng cục Du lịch và các cơ quan chức năng khác xác định những lĩnh vực cần ưu tiên đào tạo để đầu tư tập trung và sớm hình thành nên những trung tâm đào tạo chất lượng cao. Cùng với việc xây dựng các quy chế sử dụng ngân sách hợp lý và có hiệu quả, phải tăng cường cách thức chia sẻ chi phí đào tạo bằng đóng góp của cộng đồng, các doanh nghiệp – người sử dụng lao động, người học và tăng cường khả năng của các cơ sở cung cấp nghề nghiệp và giáo dục phi công lập. Xây dựng môi trường pháp lý đảm bảo các trường phi công lập có điều kiện nâng cao chất lượng. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ một phần kinh phí cho các trường ngoài công lập theo hướng khuyến khích những trường đạt kết quả đào tạo cao như: cho thuê đất xây dựng trường, vay vốn mua thiết bị, cho phép nhân dân đóng góp cổ phần xây dựng trường. Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của các nước phát triển để phục vụ các chương trình đào tạo chất lượng cao và khuyến khích các trường tham gia vào các dự án hợp tác nước ngoài. Dành vốn vay của Nhà nước để cử người giỏi đi học ở những nước có trình độ công nghệ du lịch – khách sạn tiên tiến để làm nòng cốt cho sự nghiệp phát triển du lịch lâu dài của đất nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Việc hỗ trợ tài chính cho học sinh, sinh viên có thể chuyển từ phương thức cấp học bổng sang phát triển các chương trình cho vay. Xây dựng chương trình học

bổng riêng bao gồm 2 loại học bổng chính là học bổng khuyến khích và học bổng chính sách. Xây dựng quỹ học bổng gồm các khoản kinh phí từ ngân sách Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp, cá nhân. Xem xét và quy định các mức học phí thích hợp trong các trường công lập, một mặt đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho sinh viên, mặt khác giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà vẫn khuyến khích được sinh viên học tập.

Xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm 2005 theo quan điểm tiếp cận TSA - 11

Vì vai trò của du lịch là rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội, các địa phương cần dành nguồn kinh phí cũng như quỹ đất thuận lợi cho việc xây dựng trường dạy nghề du lịch giống như việc các địa phưong dành đất cho xây dựng khách sạn, các công ty liên doanh với nước ngoài, có như vậy mới có điều kiện thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước cho xây dựng trường.

Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước như quy định học phí, đóng góp trực tiếp của các doanh nghiệp sử dụng nhân lực được đào tạo. Các doanh nghiệp có sử dụng lao động phải tự tổ chức đào tạo, nếu không tổ chức đào tạo phải đóng thuế đào tạo để Nhà nước tổ chức đào tạo.

e. Cơ chế đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy

Trong nền kinh tế tri thức, nhân tố con người đóng vai trò quyết định. Du lịch và khách sạn được coi là ngành dịch vụ, dịch vụ đó là sự trợ giúp của con người. Người làm dịch vụ cần phải có kỹ năng nghề nghiệp nhất định. Kỹ năng này được thu nhận từ thực tế, sách vở, nhưng một yếu tố không thể thiếu được đó là người giáo viên. Vấn đề giáo viên trong các trường đào tạo du lịch là một trong những nội dung cần quan tâm của công tác quản lý.

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, thông thường các trường đào tạo về du lịch tuyển chọn giáo viên giảng dạy lý thuyết và thực hành phải đảm bảo những yêu cầu tối thiểu: được học có hệ thống, có ngoại ngữ và có năng khiếu sư phạm.

Sau khi được tuyển dụng về giảng dạy được bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ sư phạm và phải thường xuyên tiếp cận với thực tế ngành nghề để xây dựng chương trình bài giảng. Thực tế, những yêu cầu này vẫn còn khó khăn đối với các trường, bởi những người giỏi về thực tế thì thiếu kinh nghiệm sư phạm và họ không muốn làm giáo viên vì thu nhập chưa cao. Ngược lại, các giáo viên trong các trường có nghiệp vụ sư phạm nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp chưa có. Nguyên nhân là không có kinh phí để cho giáo viên tiếp cận với các cơ sở trong và ngoài nước nhằm quan sát, đúc rút, khiến bài giảng sinh động, sát hợp với thực tế. Nhiều giáo viên mong ước được đi một chuyên du lịch ra nước ngoài hay nghỉ tại một khách sạn bốn – năm sao nhưng chưa bao giờ thực hiện được, trong khi đó vẫn dạy sinh viên, học sinh về cách thức tổ chức tour du lịch quốc tế cũng như cung cách phục vụ tại khách sạn cao sao. Đây là vấn đề cần được Nhà nước, ngành du lịch Việt Nam cũng như các cơ sở kinh doanh du lịch quan tâm tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên giảng dạy về du lịch được tiếp cận với thực tiễn sinh động của ngành, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Vấn đề ở chỗ, đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy về du lịch cần có những chính sách thỏa đáng về:

+ Chế độ công tác: Để đảm bảo cho giáo viên vừa giỏi lý thuyết lẫn thực hành, việc quy định chế độ công tác cho họ phải cụ thể hóa theo yêu cầu: số giờ giảng dạy, số giờ nghiên cứu khoa học, số giờ tự bồi dưỡng nâng cao, đặc biệt phải có thêm số giờ làm việc tại các doanh nghiệp để đi tìm hiểu thực tế tại các cơ sở, nhằm nâng cao kiến thức thực tế.

+ Chế độ đãi ngộ: căn cứ vào quy định của Nhà nước, nếu người giáo viên thực hiện đầy đủ các trách nhiệm sẽ được hưởng chế độ đãi ngộ theo quy định. Mặt khác, đối với giáo viên giảng dạy về du lịch cần có quy định chế độ đi cơ sở, chế độ đãi ngộ khi đi thực tế, làm việc tại các cơ sở kinh doanh nhằm khuyến khích họ

áp dụng những lý luận của nhà trường vào thực tiễn và thu nhận những kiến thức từ thực tiễn vào giảng dạy.

+ Chế độ đi tham quan, thực tế: Thực tiễn ngành du lịch rất đa dạng, phong phú và luôn luôn đổi mới. Vì vậy, việc cho giáo viên đi tham quan, tìm hiểu cả trong và ngoài nước là vô cùng cần thiết. Việc làm này đối với từng trường là rất khó khăn. Nên chăng Tổng cục Du lịch và các cơ sở cần tạo điều kiện cho giáo viên các trường tham gia vào các đoàn khảo sát tham quan thực tế của ngành ở trong nước và nước ngoài để cho họ có những kiến thức mới, đưa vào giảng dạy cho học sinh sinh viên, phục vụ cho sự phát triển các loại hình kinh doanh mới, đào tạo mới. Các cơ sở kinh doanh trong ngành tạo điều kiện cho các giáo viên của các trường đến làm việc, thực tế tại cá cơ sở, Đặc biệt, khi các cơ sở chuẩn bị đưa ra loại hình kinh doanh mới nên mời giáo viên của các trường tham gia từ ban đầu để họ có những kiến thức nhất định đào tạo cho nguồn nhân lực phục vụ loại hình kinh doanh đó, đồng thời cũng góp ý và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.

f. Xây dựng chính sách gắn đào tạo với sử dụng

Đào tạo bồi dưỡng phải đi đôi với sử dụng và qua thực tế sử dụng lại tiếp tục đào tạo bồi dưỡng, đào tạo để luôn có được đội ngũ lao động đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, mỗi ngày đòi hỏi một cao hơn. Nhưng trong thực tế, thời gian qua nhiều sinh viên chính quy về ngành du lịch sau nhiều năm học tập, nghiên cứu, thực tập, thi, làm luận văn, học ngoại ngữ vv... rất tốn kém và vất vả xong cũng không tìm được việc làm trong ngành du lịch mà phải tìm những việc không đúng với công đầu tư của mình. Nếu coi mỗi sinh viên du lịch tốt nghiệp ra trường là một sản phẩm của các cơ sở đào tạo du lịch (đầu ra) thì chính các sản phẩm đó lại là nguồn lực cho ngành du lịch và là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của các doanh nghiệp du lịch. Như vậy, xét trên góc độ này thì các doanh nghiệp du lịch chính là thị trường đầu ra của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực. Sản phẩm

của các cơ sở đào tạo phải có chất lượng đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp mới được các doanh nghiệp chấp nhận. Chất lượng sản phẩm của các cơ sở đào tạo đại học ở đây không gì khác là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng tiếp cận với thực tế của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, mối liên hệ này đã có từ lâu nhưng hiệu quả chưa thực sự phát huy do:

Một là, phía các cơ sở đào tạo chưa có sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở thực tập trong việc xây dựng kế hoạch hướng dẫn và chỉ đạo thực tập, bản thân giáo viên được phân công hướng dẫn cũng ít có sự tiếp xúc trao đổi với các cơ sở thực tập để phối hợp chỉ đạo và hướng dẫn.

Hai là, phía các doanh nghiệp: nhiều doanh nghiệp ngại, thậm chí từ chối tiếp nhận sinh viên đến thực tập tại các cơ sở của mình.

Do vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm của các cơ sở đào tạo, một mặt phải có một chương trình đào tạo cơ bản hoàn thiện, cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác đào tạo phải phù hợp, mặt khác phải gắn với nhu cầu thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp). Muốn vậy, Nhà nước cần có những hỗ trợ phù hợp để giúp tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo. Cụ thể là:

+ Nhà nước cần có những quy định cụ thể: chỉ có những người có bằng hoặc chứng chỉ qua đào tạo nghề nghiệp mới được hành nghề.

+ Nhà nước cần quy định cụ thể về việc đền bù chi phí đào tạo, khi người được đào tạo không thực hiện các cam kết về trách nhiệm và nghĩa vụ sau khi tốt nghiệp.

Nhà nước cần có những chương trình, định hướng thông tin phù hợp về nguyên lý “đào tạo gắn với kinh doanh” để nguyên lý này trở thành sự thống nhất về nhận thức của các trường, doanh nghiệp du lịch và người học. Thông qua các hướng:

Thứ nhất, tạo điều kiện và hỗ trợ giúp cho việc tăng cường đối thoại trực tiếp giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo thông qua các buổi tọa đàm, giao lưu thường xuyên giữa những nhà quản lý doanh nghiệp với các nhà quản lý đào tạo, giảng dạy và các sinh viên chuyên ngành. Khi đó:

Về phía các doanh nghiệp cần cung cấp cho cơ sở đào tạo những thông tin về tình hình các doanh nghiệp, nhu cầu và yêu cầu về nguồn nhân lực của doanh nghiệp, của ngành làm cơ sở cho việc đào tạo của các cơ sở đào tạo. Đây là nhân tố đảm bảo sự phù hợp giữa cơ sở đào tạo. Đây là nhân tố đảm bảo sự phù hợp giữa cơ sở đào tạo với yêu cầu của thị trường cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tránh tình trạng đào tạo tràn lan dẫn đến vừa thiếu lại vừa thừa. Thừa vì quy mô đào tạo quá lớn vượt quá nhu cầu của thị trường, thiếu vì chất lượng đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, đây cũng là hoạt động nhằm định hướng nghiên cứu và tiếp cận thực tiễn cho sinh viên chuyên ngành. Các doanh nghiệp có thể tham gia vào chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo với hai hình thức: Bên cạnh việc xây dựng chương trình đào tạo cơ bản theo yêu cầu chung (phần cứng), các cơ sở đào tạo cần dành một phần mềm cho việc điều chỉnh theo yêu cầu của chuyên ngành và của thị trường. Điều này hầu như chưa được các cơ sở đào tạo thực hiện. Trên thực tế, các cơ sở đào tạo là các khoa chuyên ngành và chương trình đào tạo còn nằm trong khung chương trình chung của nhà trường nên còn thiếu phù hợp với yêu cầu của ngành.

Về phía các cơ sở đào tạo nên mời thêm các nhà quản lý doanh nghiệp và các nghệ nhân tham gia trực tiếp vào quá trình giảng dạy phần thực hành hoặc thảo luận các vấn đề thực tiễn với tư cách là người kiêm giảng. Đối với ngành du lịch Việt Nam, điều này thực sự cần thiết vì có nhiều nội dung học nếu thực hiện học “chay” trên lớp, học viên sẽ khó có thể hình dung được nhưng lại dễ dàng nắm bắt trong môi trường thực tế.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 27/06/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí