Hành Vi Nguy Cơ Cùng Nhóm Pct Khi Tham Gia Giao Thông Đường Bộ Xét Theo Các Thuộc Tính Của Nhóm


Chỉ có yếu tố mức sống của gia đình có tồn tại tương quan khá chặt chẽ (Cramers’V = 0,212) với ý nghĩa thống kê ở mức 99%. Trong đó riêng những học sinh có gia đình ở điều kiện kinh tế khá xác nhận ít nhất việc có tham gia hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông cùng nhóm PCT (35,5%).

Bảng 4.4 tiếp tục chỉ ra mối liên hệ giữa hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ cùng nhóm PCT của học sinh THPT với các thuộc tính của nhóm. Toàn bộ các khía cạnh gồm kiểu nhóm, mục đích tham gia nhóm, quy định trong nhóm và mức độ nhóm giao lưu với nhóm khác đều có mối liên hệ tương đối mạnh ở mức ý nghĩa thống kê 99%.

Những hành vi nguy cơ khi tham gia giao thông đường bộ có xác nhận thực hiện cùng nhóm PCT trong học sinh THPT nhiều nhất ở kiểu nhóm cùng môi trường sống (65,9%) và nhóm có giao lưu thường xuyên với nhóm khác (68,3%). Trong khi đó tỷ lệ như vậy là thấp nhất ở kiểu nhóm cùng sở thích (19,2%), mục đích tham gia nhóm để khẳng định bản thân (19,2%) và nhóm có quy định về tương tác ngoài nhóm (30,9%).

Thực tế đó được phản ánh phù hợp với nhận định nêu ra trong nghiên cứu của tác giả Bùi Đức Trọng (2010) với đề tài “Thái độ tham gia giao thông của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Theo đó thái độ tiêu cực của học sinh đối với việc tham gia giao thông đường bộ có nguyên nhân chủ quan từ đặc điểm sinh lý lứa tuổi – hành động dựa trên cảm tính, bắt chước thói xấu của bạn bè, người lớn. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra những nguyên nhân khách quan tác động lên thái độ tham gia giao thông của học sinh là do công tác tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông trong nhà trường chưa tốt; ngoài ra còn do hệ thống pháp luật Việt Nam về trật tự an toàn giao thông còn chưa nghiêm và mang nhiều vấn đề bất cập [19].


Bảng 4.4. Hành vi nguy cơ cùng nhóm PCT khi tham gia giao thông đường bộ xét theo các thuộc tính của nhóm



Thuộc tính của nhóm PCT

Hành vi nguy cơ khi TGGT cùng nhóm PCT


Kiểm định

Số lượng

tổng

Không

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Chung

448

240

53,6

208

46,4

Kiểu nhóm

Cùng môi trường

sống


126


43


34,1


83


65,9

p=0,000***; Cramer’s V

=0,356

Cùng lợi ích

101

48

47,5

53

52,5

Cùng niềm tin

101

52

51,5

49

48,5

Cùng sở thích

120

97

80,8

23

19,2

Mục đích tham gia nhóm

Giúp đỡ, trao đổi

211

101

47,9


110

52,1

p=0,000***; Cramer’s V

=0,305

Khẳng định bản thân

104

84

80,8

20

19,2

Tìm lợi ích

133

55

41,4

78

58,6

Quy định trong nhóm

Về vai trò trưởng

nhóm


56


22


39,3


34


60,7

p=0,000***; Cramer’s V

=0,228

Về tương tác trong

nhóm

240

113

47,1

127

52,9

Về tương tác ngoài

nhóm

152

105

69,1

47

30,9

Mức độ nhóm giao lưu với nhóm khác

Chưa bao giờ


43


28


65,1


15


34,9

p=0,000***; Cramer’s V

=0,254

Hiếm khi

54

27

50,0

27

50,0

Thỉnh thoảng

247

152

61,5

95

38,5

Thường xuyên

104

33

31,7

71

68,3

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Việc tham gia nhóm phi chính thức và hành vi sai lệch của học sinh THPT tại thành phố Hà Nội - 16

***: có ý nghĩa thống kê ở mức 99%.

(Kết quả điều tra xã hội học của tác giả)


4.2.2. Hành vi nguy cơ đối với trật tự xã hội cùng nhóm phi chính thức của học sinh trung học phổ thông

Hành vi nguy cơ đối với trật tự xã hội là một dạng thức tiếp theo của hành vi sai lệch, với những hành vi trái với quy ước thông thường về lối sống, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục, hoặc vi phạm những quy tắc đã được thể chế


hóa bằng pháp luật để giữ an ninh trật tự trong cộng đồng dân cư và xã hội. Theo đó, hành vi chơi bài ăn tiền, hái hoa bẻ cành nơi công cộng, chiếm giữ trái phép tài sản của người khác như đã được đề cập thuộc vào dạng thức hành vi sai lệch này.


Bảng 4.5. Hành vi nguy cơ với trật tự xã hội cùng nhóm PCT

xét theo đặc điểm nhân khẩu học của học sinh THPT



Đặc điểm của học sinh THPT

Hành vi nguy cơ với TTXH cùng nhóm PCT


Kiểm định

Số lượng tổng

Không

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Chung

448

343

76,6

105

23,4

Giới tính HS

Nam


219


169


77,2


50


22,8

X2=0,088;

p=0,767

Nữ

229

174

76,0

55

24,0

Mức sống của gia đình

Giàu


6


3


50,0


3


50,0

p=0,003**; Cramer’s V

=0,177

Khá

214

175

81,8

39

18,2

Trung bình

197

148

75,1

49

24,9

Nghèo, cận

nghèo

31

17

54,8

14

45,2

Khối lớp

Khối 10


144


109


75,7


35


24,3

X2=3,450;

p=0,178

Khối 11

151

123

81,5

28

18,5

Khối 12

153

111

72,5

42

27,5

***: có ý nghĩa thống kê ở mức 95%.

(Kết quả điều tra xã hội học của tác giả)


Đặt trong mối tương quan với đặc điểm nhân khẩu học của học sinh THPT trong nghiên cứu này, việc tham gia vào hành vi nguy cơ với trật tự xã hội cùng nhóm PCT chỉ có sự liên hệ tương đối lỏng lẻo (Cramers’V = 0,177) với độ tin cậy 95% cùng đặc điểm về mức sống của gia đình. Hai yếu tố giới tính và khối lớp không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê với dạng thức hành vi sai lệch này (bảng 4.5).

Xem xét chi tiết trong các mức sống của gia đình học sinh, tỷ lệ học sinh xác nhận cả điều kiện kinh tế gia đình giàu có và tham gia vào hành vi nguy cơ với trật tự xã hội là cao nhất (50,0%) trong các mức sống, kế tiếp là những học sinh thuộc


gia đình nghèo, cận nghèo (45,2%). Như vậy học sinh THPT ở hai trạng thái đối lập về điều kiện vật chất trong cuộc sống đều có thể ở tình trạng “phơi nhiễm” lớn trước hành vi nguy cơ với trật tự xã hội. Những hành vi như cờ bạc ăn tiền, hái hoa bẻ cành nơi công cộng, hoặc chiếm giữ trái phép tài sản của người khác mới đầu thường chỉ được xem là một trò chơi, một việc trêu đùa để giải trí, nhưng cũng có thể bị biến thành một hành động có ý đồ rõ ràng vì mục đích kinh tế hoặc thể hiện vị thế của bản thân. Chẳng hạn chơi bài ăn tiền cùng với cá độ và lô đề là hiện tượng luôn gắn liền với những ý muốn hưởng thụ, nhu cầu giải trí của con người. Khi những ý muốn hưởng thụ này không đúng chuẩn mực, không đúng với điều kiện thực tế thì trở thành sai lệch. Đó là trường họp cho rằng có chơi một chút, mất đi một ít tiền thì coi như mua vui, đầu tiên là trò giải trí, dần dần để hay hơn và hấp dẫn hơn thì dùng tiền, vật chất để tính toán với nhau, thậm chí biến thành sự đam mê ([16], trang 315-318).

Đối với tương quan giữa hành vi nguy cơ với trật tự xã hội cùng nhóm PCT và các thuộc tính của nhóm PCT, kết quả trình bày tại bảng 4.6 cho thấy tồn tại mối liên hệ có ý nghĩa thống kê ở mức 99% với tất cả các thuộc tính nhóm PCT được xem xét. Trong đó mối liên hệ với kiểu nhóm là mạnh nhất (Cramers’V = 0,245), tiếp đến là mục đích tham gia nhóm, mức độ nhóm giao lưu với nhóm khác, và ít chặt chẽ nhất là với quy định trong nhóm (Cramers’V = 0,195). Tỷ lệ học sinh THPT thực hiện hành vi nguy cơ với TTXH cùng nhóm PCT là thấp nhất ở kiểu nhóm cùng sở thích (6,7%), mục đích khẳng định bản thân khi tham gia nhóm (7,7%), nhóm có quy định về tương tác với bên ngoài (12,5%), và nhóm không có giao lưu với nhóm khác (14,0%). Những chỉ báo còn lại của từng thuộc tính nhóm có tỷ lệ không quá khác biệt với nhau trong mối liên hệ với việc có hành vi nguy cơ với trật tự xã hội cùng nhóm PCT.

Có thể thấy rằng mối quan hệ với các bạn bè đồng trang lứa có hành vi nguy cơ có liên quan đến sự xuất hiện của hành vi hướng ngoại, đặc biệt khi những mối quan hệ này là tình bạn thân thiết. Sự liên kết này có thể vừa là kết quả của sự lệch lạc trong bạn bè gây nên sự gia tăng hành vi chống đối xã hội cũng như bởi xu


hướng hành vi hướng ngoại của chính cá nhân đó dẫn đến sự hình thành tình bạn lệch lạc [56].


Bảng 4.6. Hành vi nguy cơ với trật tự xã hội cùng nhóm PCT xét theo các thuộc tính của nhóm



Thuộc tính của nhóm PCT

Hành vi nguy cơ với TTXH cùng nhóm PCT


Kiểm định

Số lượng tổng

Không

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Chung

448

343

76,6

105

23,4

Kiểu nhóm

Cùng môi trường sống


126


86


68,3


40


31,7

p=0,000***; Cramer’s V

=0,245

Cùng lợi ích

101

70

69,3

31

30,7

Cùng niềm tin

101

75

74,3

26

25,7

Cùng sở thích

120

112

93,3

8

6,7

Mục đích tham gia nhóm

Giúp đỡ, trao

đổi


211


151


71,6


60


28,4

p=0,000***; Cramer’s V

=0,204

Khẳng định bản

thân

104

96

92,3

8

7,7

Tìm lợi ích

133

96

72,2

37

27,8

Quy định trong nhóm

Về vai trò

trưởng nhóm


56


36


64,3


20


35,7

p=0,000***; Cramer’s V

=0,195

Về tương tác

trong nhóm

240

174

72,5

66

27,5

Về tương tác

ngoài nhóm

152

133

87,5

19

12,5

Mức độ nhóm giao lưu với nhóm khác

Chưa bao giờ


43


37


86,0


6


14,0

p=0,000***; Cramer’s V

=0,200

Hiếm khi

54

42

77,8

12

22,2

Thỉnh thoảng

247

200

81,0

47

19,0

Thường xuyên

104

64

61,5

40

38,5

***: có ý nghĩa thống kê ở mức 99%.

(Kết quả điều tra xã hội học của tác giả)


Bên cạnh đó, lứa tuổi học sinh THPT cũng là lúc xuất hiện “cảm giác mình


là người lớn” với mong muốn được tự khẳng định bản thân, thể hiện cái Tôi và cá tính riêng [3]. Điều này có thể dẫn đến sự chống đối những chuẩn mực và quy tắc xã hội chung của các em. Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định về mặt nhân cách khiến lứa tuổi này dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài, như là từ nhóm phi chính thức, trò chơi điện tử,… mà các em tham gia [19].

4.2.3. Hành vi bạo lực học đường cùng nhóm phi chính thức của học sinh trung học phổ thông

Dạng thức hành vi sai lệch thứ ba được xem xét trong nghiên cứu này là hành vi bạo lực học đường. Bạo lực học đường (BLHĐ) là thuật ngữ để chỉ những hành vi bạo lực trong môi trường học đường, hoặc những hành vi bạo lực của lứa tuổi học đường. Bao gồm trong thuật ngữ này là hàng loạt các hành vi bạo lực với các mức độ khác nhau, từ không lời đến có lời, từ hành động đơn giản đến hành động gây hấn, phá phách, gây tổn thương, thậm chí tổn hại đến người khác ([46], trang 28). Theo đó BLHĐ gồm hai cấp độ chính: (1) Bạo lực bằng ngôn ngữ gây tổn hại về mặt tinh thần, bao gồm các hình thức cụ thể như: Nói xấu xúc phạm, chửi mắng sỉ nhục, sử dụng điện thoại/internet đưa tin nói xấu, xúc phạm đe dọa bạn/thầy cô; và (2) bạo lực bằng hành động gây tổn hại thể xác, bao gồm có hành động đe dọa; đánh; sử dụng hung khí tấn công bạn/thầy cô. Chủ thể và đối tượng của BLHĐ là giáo viên (GV) và học sinh (HS), BLHĐ có thể xảy ra bên trong hoặc bên ngoài trường học.

Trong nghiên cứu này hành vi bạo lực học đường được tiếp cận chỉ ở việc có đánh nhau trong trường giữa các học sinh THPT. Với tỷ lệ 12,9% trong mẫu khảo sát có từng tham gia hành vi BLHĐ cùng nhóm PCT cho thấy đây vẫn là một thách thức đặt ra cho các nhà trường vốn luôn được xem là nơi có môi trường giáo dục lành mạnh nhất. Đặt trong mối liên hệ với đặc điểm nhân khẩu học của học sinh THPT thì việc tham gia hành vi BLHĐ cùng nhóm PCT có tương quan khá lỏng lẻo với mức sống của gia đình học sinh (Cramers’V = 0,155) ở mức ý nghĩa thống kê 95%, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê khi xét theo giới tính và khối lớp (bảng 4.7).


Bảng 4.7. Hành vi bạo lực học đường cùng nhóm PCT xét theo đặc điểm nhân khẩu học của học sinh THPT



Đặc điểm của học sinh THPT

Hành vi LHĐ cùng nhóm PCT


Kiểm định

Số lượng tổng

Không

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Chung

448

390

87,1

58

12,9

Giới tính HS

Nam


219


190


86,8


29


13,2

X2=0,033;

p=0,855

Nữ

229

200

87,3

29

12,7

Mức sống của gia đình

Giàu


6


4


66,7


2


33,3

p=0,013**; Cramer’s V

=0,155

Khá

214

187

87,4

27

12,6

Trung bình

197

177

89,8

20

10,2

Nghèo, cận

nghèo

31

22

71,0

9

29,0

Khối lớp

Khối 10


144


126


87,5


18


12,5

X2=0,607;

p=0,998

Khối 11

151

134

88,7

17

11,3

Khối 12

153

130

85,0

23

15,0

**: có ý nghĩa thống kê ở mức 95%.

(Kết quả điều tra xã hội học của tác giả)


Điều này là khác biệt với các nghiên cứu ở châu Á về các yếu tố nguy cơ của bạo lực học đường đối với học sinh THPT vốn nhận định rằng học sinh nam có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi các bạn đồng lứa có nguy cơ hơn các em nữ. Nếu học sinh nam có thái độ tích cực đối với bạo lực và khả năng kiểm soát bốc đồng kém kết hợp với các bạn cùng trang lứa có các đặc điểm cá nhân tương tự, họ có thể có nhiều khả năng gia tăng sự hứng thú đối với hành vi bạo lực ở trường hơn so với học sinh nữ. Vì vậy, các biện pháp can thiệp nhằm vào những đặc điểm cá nhân tiêu cực và giảm bớt những người bạn đồng lứa có nguy cơ sẽ có thể làm giảm hành vi bạo lực trong học sinh và sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng đến học sinh nam hơn. Đáng chú ý là các nghiên cứu đó cũng chỉ ra rằng các nhóm bạn đồng lứa ở trường bên cạnh việc có tính nguy cơ thì cũng đóng vai trò trung gian hòa giải chính trong quá trình diễn biến của BLHĐ. Tuy nhiên mức độ khái quát của những phát hiện


như vậy dựa trên các quan điểm lý thuyết của phương Tây đối với học sinh trung học châu Á còn chưa thực sự chắc chắn vì hầu hết các nghiên cứu đó được thực hiện trên các mẫu không đại diện trong hệ thống đào tạo phổ thông [50].

Nhìn chung các nhà trường đều có kỷ luật nghiêm khắc trong việc giáo dục học sinh với các nội quy, quy định những điều học sinh được làm và không được làm, đồng thời nêu ra các hình thức kỷ luật nếu học sinh vi phạm. Tuy nhiên, những lần mâu thuẫn, xô xát dẫn đến đánh nhau vẫn có thể xảy ra trong học sinh. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới BLHĐ, như các đặc điểm cá nhân tiêu cực, tham gia học tập ở trường không đầy đủ, tham gia với các bạn cùng trang lứa có nguy cơ, cha mẹ ít giám sát, và không có mối quan hệ tốt với giáo viên [50]. Thông thường các em không đánh nhau ngay tại cổng trường mà thường hẹn nhau tại một địa điểm cách xa trường sau giờ tan học.

Trong mối liên hệ với các thuộc tính của nhóm PCT, kết quả nghiên cứu này cho thấy chỉ có kiểu nhóm và quy định trong nhóm có tương quan với hành vi BLHĐ cùng nhóm PCT của học sinh THPT (bảng 4.8). Trước hết kiểu nhóm có mối liên hệ khá chặt (Cramers’V = 0,254) với việc học sinh THPT có tham gia hành vi BLHĐ cùng nhóm PCT ở mức ý nghĩa thống kê 99%. Cụ thể, học sinh THPT tham gia kiểu nhóm PCT cùng môi trường sống có tỷ lệ nhiều nhất (25,4%) cùng nhóm thực hiện hành vi BLHĐ; ngược lại tỷ lệ đó thấp nhất và ở mức khá nhỏ đối với kiểu nhóm cùng niềm tin và cùng sở thích (lần lượt là 6,9% và 4,2%). Đối với quy định trong nhóm PCT, mối liên hệ với việc học sinh THPT tham gia hành vi BLHĐ cùng nhóm PCT là lỏng lẻo (Cramers’V = 0,111) với độ tin cậy 90%. Trong đó tỷ lệ học sinh tham gia BLHĐ cùng nhóm PCT có quy định về tương tác ngoài nhóm là thấp nhất (7,9%).

Nghiên cứu của Ông Thị Mai Thương ở thành phố Vinh [36] cũng cho thấy rằng giá trị và chuẩn mực trong nhóm làm gia tăng hành vi đánh nhau của nhóm học sinh cá biệt đang học tại trường THPT được khảo sát. Ở các nhóm học sinh cá biệt đó, giá trị nhóm được biểu hiện ở tinh thần đoàn kết giữa các thành viên. Bên cạnh đó, chuẩn mực nhóm không được thể hiện thành những quy định rõ ràng mà tiềm

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 14/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí