Vấn Đề Thượng Đế Sáng Tạo Muôn Vật


đổi mới mạnh mẽ và thể hiện tinh thần hội nhập Phật giáo thế giới trong xu hướng phát triển.

2.1.1. Vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật


Theo học thuyết Duyên khởi của Phật giáo, vạn pháp do duyên sinh và cũng do duyên diệt, nên không có một thực thể cố định thì hẳn nhiên niềm tin vào một vị thần sáng tạo luôn luôn bị phản bác. Tư tưởng phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện rất nhiều trong kinh tạng Phật giáo. Vấn đề này, xuyên qua nhiều thế kỷ, triết học Phật giáo đã trình bày chi tiết các lập luận bác bỏ học thuyết về một vị thần sáng thế. Nó đã được quan tâm để so sánh những việc này với cách mà các triết gia phương Tây đã bác bỏ các thông tin chứng minh thần học về sự tồn tại của đấng sáng tạo.

Ở Việt Nam, từ khi phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời thì vấn đề quan niệm đạo Phật vô thần hay hữu thần, đạo Phật thừa nhận hay phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế mới được đem ra tranh luận sôi nổi trên diễn đàn báo chí Phật giáo và điều đó đã thu hút sự chú ý của hàng vạn tín đồ và độc giả. Sự kiện này, phần nhiều các tạp chí Phật giáo đều đồng ý với tư tưởng không có Thượng đế sáng tạo muôn vật.

Tạp chí Viên âm số 5 - 1934 đã đề cập đến bài Muôn vật vì sao mà có. Ở đây, Viên âm đã giải thích rõ muôn vật không có tự tính, tức là không thực có. Con người do mê muội, trong thể tính bình đẳng không tự biết, nên chia ra có tâm có cảnh, rồi hiện ra dường như là có muôn vật, chứ thật ra muôn vật không thực có. Muôn vật đã không thực có thì khác gì cảnh giới trong chiêm bao, chỉ vì nhân duyên nương nhau nên hiện ra hình trạng giả dối ở trong tính mê lầm của con người. Sáng nương với tối mà có; tư tưởng, suy nghĩ nương theo cảm xúc mà có; nương với nhau, đối đãi với nhau mà hóa ra cái tướng giả dối của vũ trụ này; cũng in tuồng có sinh, nhưng thật ra không có cái gì đáng gọi là sinh; cũng in tuồng có diệt, nhưng thật ra không có cái gì đáng gọi là diệt. Nếu suy xét cho cùng tột thì chỉ thấy những tính giả dối nương với nhau, đối đãi với nhau mà thôi chứ không có muôn vật. Tính nương nhau, đối đãi với nhau đó, trong đạo Phật gọi là “nhân duyên”. Khi các nhân duyên hợp lại thì dường như là có, khi các nhân duyên chia rẽ thì dường như là


không. Nếu con người bỏ được tính chấp có, chấp không thì mới biết toàn cả vũ trụ xưa nay vẫn một thể như nhau không khác.

Trên Viên âm số 8, ra tháng 7 năm 1934, đề cập tiếp theo tư tưởng muôn vật vì sao mà có qua bài Phạm vương và tạo hóa. Bài này giải thích rõ ràng hơn về vấn đề Thượng đế tạo vật. Mở đầu bài viết, Viên âm đã khẳng định: “Có người đạo Phật coi sách Bà la môn thấy nói “Phạm vương sinh ra vạn vật”, rồi đến khi coi kinh Phật, thấy nói có “Phạm vương thính pháp” lại tưởng lầm rằng đạo Phật cũng thừa nhận có ông Tạo hóa. Điều này nên cải chính. Trong kinh điển đạo Phật, đã có nhiều chỗ bác lý thuyết Tạo hóa”. Qua đó, Viên âm tiếp tục lược giải những luận điểm đó rất cụ thể. Viên âm khẳng định Phạm vương không thể tự mình sinh ra, vì những lý do sau: Thứ nhất, trước khi sinh ra thì không có cái chi đáng gọi là tự mình, như thế thì làm sao còn sinh ra được. Thứ hai, vì tính thiêng liêng đã cho là tính của Phạm vương thì trước khi Phạm vương sinh ra chưa có tính thiêng liêng, chưa có tính thiêng liêng thì Phạm vương nương vào đâu mà tự sinh? Thứ ba, nếu như không có tính thiêng liêng mà cũng tự sinh ra được thì cần gì phải tin rằng có ông Tạo hóa? Thứ tư, vì tính thiêng liêng của Phạm vương chỉ do tư tưởng Bà la môn tạo thành, không phải sự thật. Tính thiêng liêng là cái gì? Chẳng lẽ nói luẩn quẩn như vậy: Phạm vương có tính thiêng liêng vì ông tự sinh, Phạm vương tự sinh vì ông có tính thiêng liêng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.

Tiếp đó, Viên âm lý giải thêm rằng phàm luận lý phải do nơi thực nghiệm, không nên lấy sự tự tin riêng của mình làm bằng cớ mà bàn luận, huống chi không đủ duyên cớ chứng minh chắc rằng có một ông nào sinh ra vạn vật, dầu là ông Phạm vương. Vì sao? Vì những nguyên nhân sau: Thứ nhất, nếu trước không có gì cả thì ông Phạm vương lấy duyên cớ gì mà tự sinh? Thứ hai, nếu trước khi có muôn vật, chỉ có một mình ông Phạm vương thì vì cớ gì mà ông phải sinh ra muôn vật? Nếu bản tính của Phạm vương là sinh ra muôn vật thì muôn vật với ông phải cùng sinh ra một lần. Đã cùng sinh ra một lần thì Phạm vương không thể gọi là ông Tạo hóa, còn nếu bản tính của Phạm vương không sinh ra muôn vật, thì ông cứ không sinh ra luôn, vì trong khi chỉ có một mình ông, không có cái gì khác nữa, ông có thể mượn duyên cớ gì khác đặng sinh ra muôn vật. Thứ ba, Phạm vương hữu hình hay


Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm 1945 - 9

vô hình, có tri giác hay không có tri giác? Không thể có cái gì gồm cả hữu hình và vô hình, hay gồm cả tri giác và không có tri giác được. Vậy, nếu Phạm vương vô hình thì không thể sinh ra các món hữu hình, nếu Phạm vương có tri giác thì không thể sinh ra các món không tri giác. Huống chi trong thế gian, người khôn kẻ dại, người lành kẻ dữ, loài bay loài lặn, loài lanh lẹ loài chậm chạp, đều khác hẳn với nhau, lẽ đâu một giống lại sinh ra nhiều thứ như vậy.

Viên âm số 27, ra tháng 8 năm 1937 có đăng bài giảng Đâu là con đường hạnh phúc của nhà sư Đôn Hậu giảng tại Faifoo (Hội An) ngày 25.3.1937, đã một lần nữa góp phần bác bỏ những thuyết khẳng định sự tồn tại của Thượng đế. Tác giả lập luận rằng sự hạnh phúc của con người hẳn nhiên không phải do thờ phụng, cúng bái hay cầu nguyện mà đạt được. Điều chính yếu là phải thực hành những pháp chân chính. Đấng thiêng liêng mà con người tin tưởng, dù là có cũng chưa phải hẳn tột đỉnh cao quý, không phải bình đẳng, từ bi, vì còn ban thưởng những ai cầu xin mình và xử phạt ai không tôn kính mình. Như thế chẳng khác gì người có thế lực, nếu ai biết cầu lụy mình thì ban cho chức này chức nọ, còn ngược lại thì bị đày đọa, chém giết. Qua đó, tác giả khẳng định không có Thượng đế tạo vật bằng câu chất vấn rất sắc bén: “Đã là thiêng liêng thì cái gì cũng sinh ra được, cái gì cũng cải lại được, mà nay sinh ra để cho người ta không theo mình rồi bỏ vào địa ngục là lý làm sao?”.

Phải nói, những tư tưởng bác bỏ Thượng đế tạo vật trong Viên âm rất lý thú, chuẩn xác, đã tạo được sự đồng tình của các tín đồ Phật giáo.

Tạp chí Duy tâm Phật họccũng tham gia vào cuộc thảo luận phủ định sự tồn tại của Thượng đế sáng tạo muôn vật. Tuy nhiên, với chủ đề này, Duy tâm Phật học có ý muốn nghiêng về chủ trương gắn liền Phật giáo với khoa học.

Trên Duy tâm Phật học số 5, ra tháng 2.1936, An Giang cư sĩ đã viết bài Phật giáo với thuyết Vũ trụ quan, thuật lại quan điểm của đức Phật là không quan tâm đến chuyện ai là đấng sáng tạo ra vũ trụ. Đạo Phật chỉ xác tín rằng vũ trụ là vô thủy vô chung và luôn “biến chuyển theo luật nhân quả vô cùng tận”. Sau đó, liên tục những số 6, 7, 8, tạp chí cũng lần lượt đăng bài của HT. Khánh Hòa đã giảng tại Hội Lưỡng Xuyên Phật học nhân dịp đại hội đầu năm. Bài giảng đã lý giải về những


quan niệm vũ trụ và nhân sinh của Phật giáo rất cụ thể. Đầu tiên, Hòa thượng nhấn mạnh đến mối quan hệ mật thiết giữa khoa học hiện đại và Phật học cổ truyền, nhằm mục đích xóa bỏ những tư tưởng cho rằng đạo Phật là mê tín dị đoan:

Tôi vốn là một nhà học Phật chớ không phải một nhà thực nghiệm khoa học, nên không dám phê bình khoa học, nhưng theo lý học thì Phật pháp tức khoa học, khoa học tức Phật pháp, khoa học là “tướng”, Phật pháp là “tính”, khoa học là “dụng”, Phật pháp là “thể”, khoa học là “sự”, Phật pháp là “lý”. Chưa hề có tướng mà không tính, có thể mà không dụng, có sự mà không lý, có hình thức mà không tinh thần bao giờ. Bởi cái bệnh vị ngã đã thông thường, phái duy tâm thì bài xích phái duy vật, phái duy vật lại kích bác phái duy tâm, kẻ chấp lý bỏ sự, người chấp sự bỏ lý, mới sinh ra phân biệt bỉ thử. Thật ra, Phật pháp không ngoài khoa học, khoa học cũng không ngoài Phật pháp, Phật pháp khoa học viên dung mới hoàn toàn sự lý.

Luận điểm trên cho thấy, HT. Khánh Hòa muốn dung hòa Phật giáo với khoa học, muốn khẳng định cho muôn người hiểu được rằng các tôn giáo trên thế giới, chỉ có Phật giáo là hợp nhất với khoa học. Điều này, lúc bấy giờ trên báo Đuốc tuệ đã liên tục xuất hiện nhiều bài viết bàn luận và minh chứng Phật giáo mang tính khoa học mà không phải mê tín, là tân tiến chứ không phải cổ hủ, là năng động, nhiệt tình trong việc cứu độ chúng sinh mà không phải bi quan, yếm thế.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật đã vận dụng phương thức tương tự khoa học để quán sát thế giới nội tại bằng sự suy xét vô tư khách quan và khuyến khích các đệ tử của Ngài không nên chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi nào họ đã thực sự nghiên cứu và xác chứng tính thực tại của nó. Như lời tuyên bố của Đức Phật: “Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, ai thấy Ta, người ấy thấy pháp” [12, tr.219]. Lời tuyên bố đó cũng có nghĩa rằng trí tuệ mà Đức Phật chứng ngộ là toàn bộ giáo lý Ngài đã tự thân tu tập, tự thân hành trì và tự thân chứng ngộ. Tại đây, cánh cửa giải thoát sẽ mở ra một chân trời mới của thế giới tự tại, an lạc và hạnh phúc thật sự khi mỗi cá nhân biết tự thực nghiệm và chứng ngộ.


Như vậy, có thể nói triết lý Phật giáo rất gần gũi với tinh thần khoa học, nhưng sẽ không đúng nếu cho rằng Phật giáo là triết lý khoa học. Bởi việc ứng dụng thực tiễn của khoa học có khả năng làm cho đời sống con người tiện nghi hơn, giỏi hơn, hưởng thụ hơn những điều trước đây chưa từng có. Nhưng khoa học không thể giúp con người chế ngự tự tâm, như ngày nay có quá nhiều người lâm vào tình trạng sợ hãi, bất an và cảm thấy không an ổn. Đồng thời khoa học cũng không đưa con người đạt đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống.

Tiếp đó, trên tạp chí Duy tâm Phật học, HT. Khánh Hòa lại trực tiếp phản bác quan niệm Thượng đế sáng tạo: “Nếu Thượng đế hay cái hình xanh xanh tròn tròn là đấng chúa tể đủ nhân đức, nhân lực, hoàn toàn tự quyền tạo ra muôn vật, thì tức là một đại từ phụ của muôn vật, sao không dùng công đạo công lý, lại đành nhẫn tâm tạo ra có giống làm người khôn ngoan xảo trá, có giống làm vật ngu độn dại khờ”.

Qua đó, Hòa thượng còn nhấn mạnh nếu có Thượng đế sáng tạo thì tại sao không lấy đức từ bi mà tạo ra sự bình đẳng cho con người. Hiện đời vẫn có người giàu sang hạnh phúc, có người phải chịu dốt nát, bệnh hoạn mà nghèo hèn, đói rách, thống khổ đủ điều…

Trên Duy tâm Phật học số 24, ra tháng 9.1937, Trường Tố đăng bài Thuyết sinh tử, trong đó tác giả giải thích nguồn gốc của vũ trụ không phải do Thượng đế mà chính là do “Tứ đại” (đất, nước, gió, lửa) tạo nên. Ông nhấn mạnh Tứ đại là thuyết phổ biến của triết học nguyên thủy Ấn Độ, nhưng ngoài tứ đại còn phải có thêm cái biết và cái không, đó là theo thuyết “Lục đại duyên khởi”.

Trên báo Đuốc tuệ, từ số 71-74, trong bài viết Phật giáo tân luận, Nguyễn Trọng Thuật đã bàn cãi với các nhà Phật học ở Trung Kỳ và Nam Kỳ về vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật với nhiều lý luận khác nhau. Cụ thể ở số 72, ông khẳng định: “Đức Thích Ca cho rằng hết thảy mọi sự vật trong vũ trụ đều do ở cái tâm của ta tạo ra cả. Thiện hay ác là do cái tâm ta tự làm, siêu hay đọa là do cái tâm ta tự biết, chứ chẳng phải cầu ở đâu bên ngoài”.


Luận điểm đó của Nguyễn Trọng Thuật là đồng ý với tư tưởng cho rằng đạo Phật là một tôn giáo không công nhận có thượng đế sáng tạo. Để nhấn mạnh thêm điều này, trong số 73, ra ngày 15.11.1937, cũng trong bài Phật giáo tân luận, ông khẳng định rằng xét cùng vật lý, tới cõi tuyệt đối, không thấy có manh mối gì làm chủ trương trong vũ trụ, nên Đức Phật Thích Ca không thừa nhận cái thuyết Phạm vương sáng tạo. Ngài cho rằng mọi phép tắc trong vũ trụ chỉ là do nhiều nhân duyên gặp nhau, cảm nhau, hợp nhau lại mà thành. Song vạn vật đều có bản thể mà tâm ta vốn có bản lai. Bản lai của tâm ta là do ở một linh tính chân như bàng bạc khắp vũ trụ, vô thỉ vô chung, chiếu sáng cho hết thảy. Bởi thế, Ngài gọi linh tính ấy là Phật tính. Từ những luận cứ đó, Nguyễn Trọng Thuật đã khẳng định: “Vậy thì đạo Phật là y cứ vào thực chứng mà luận vật lý chứ không phải là “liễu tận không hư”. Đã quy tâm chân như của người ta, lại tôn sùng linh tính của vụ trụ, thế là đạo Phật đã biết tới chỗ vũ trụ thần đó, chứ không phải là độc tôn ngã mạn như lời Huxley Tiên sinh đã nói ở trong sách Thiên diễn”. Qua đó, ông cũng nhấn mạnh quan điểm của mình rằng đạo Phật thực là bổ khuyết cho chủ nghĩa thuần duy vật mà lại thoát được cái mê tín Phạm vương sáng tạo của Bà la môn. Cho nên nói, đạo Phật thực là một tôn giáo văn minh.

Cũng trên Đuốc tuệ, còn có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả đồng tình với Viên âm Duy tâm Phật học khi cho rằng không có Thượng đế sáng tạo muôn vật. Như ở mục Phật học vấn đáp trên Đuốc tuệ số 77, ra ngày 15.1.1938 đã khẳng định: “Vũ trụ và muôn vật đều bởi nhân duyên mà thành lập, không phải do một thiên thần sáng tạo, duy có nhân tốt lại gặp những duyên tốt thì thành những vật tốt, trái lại, nhân duyên không tốt thì thành những vật xấu. Người biết tránh ác theo lành thì thần thức sáng láng, tức là cái nhân tốt, lại nhờ chủng loại quý báu, tức là cái duyên tốt vậy”.

Như thế, cả ba tạp chí, tờ báo Phật học lớn của cả ba kỳ là Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ đều lấy tinh thần vô thủy vô chung, vạn vật do duyên sinh và cũng do duyên diệt mà đánh đổ quan điểm Thượng đế sáng tạo muôn vật ra khỏi vòng tranh luận đương thời.


Quả đúng như vậy, vì tin tưởng vào một đấng sáng thế Brahman (Phạm thiên) mà hàng nghìn năm, xã hội Ấn Độ đã duy trì sự phân chia bốn giai cấp, gây nên sự chia rẽ trầm trọng, mỗi giai cấp đều tùy thuộc vào ý chí của đấng Phạm thiên, cố định vị trí ở thân thể của Phạm thiên: Giai cấp Bà la môn được cho là con chính thống của Phạm thiên, sinh ra từ miệng Phạm thiên, là chủng tính tối thượng an hưởng cuộc đời sung sướng. Giai cấp Sát đế lỵ sinh ra từ cánh tay Phạm thiên, là giai cấp hoàng tộc, thay Phạm thiên nắm giữ quyền hành thống trị. Giai cấp Vệ xá được cho là sinh ra từ bắp vế Phạm thiên, là giai cấp thương gia, nông phu và thợ thuyền phụ trách về kinh tế. Giai cấp Thủ đà la được cho là sinh ra từ gót chân của Phạm thiên, là hạng bần cùng hạ tiện và chỉ làm nô lệ suốt đời cho các giai cấp trên.

Sự thị hiện của Đức Phật đã làm đảo lộn mọi giá trị cố hữu, thay vào đó Ngài mở ra cánh cửa mới của sự nhận thức khi chối từ về sự tồn tại của Brahman; điều này được đề cập trong nhiều kinh văn Phật giáo. Đoạn kinh Tevijja (Tam minh) sau đây kể về cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Bà la môn Vàsettha về đấng Phạm thiên:

Này Vàsettha, như vậy ngươi nói không có một Bà la môn nào trong những vị tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một đại tôn sư nào của các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà và đã tận mặt thấy Phạm thiên, không có một Bà la môn nào cho đến bảy đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã tận mắt thấy Phạm thiên. Trong những tu sĩ thời cổ, trong các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà, những vị sáng tác các thần chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa kia những thần chú được hát lên, được trì tụng, được ngâm vịnh và ngày nay những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà cũng hát lên, trì tụng và giảng dạy như các vị Atthaka, Vàmaka… không có một vị nào đã nói: “Chúng tôi biết, chúng tôi thấy Phạm thiên ở đâu, Phạm thiên từ đâu đến, Phạm thiên sẽ đi đâu”. Như vậy các Bà la môn tinh thông ba tập Vedà đã nói: “Chúng tôi không biết, chúng tôi không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên, nhưng chúng tôi thuyết dạy con đường ấy: “Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với


Phạm thiên cho những ai thực hành theo”. Này Vàsettha, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy thời có phải lời nói của những Bà la môn tinh thông ba tập Vedà là không chính xác, hợp lý [13, bài kinh số 13].

Đối với một số người tin tưởng một cách nghiêm túc hơn thì ý tưởng về đấng Thượng đế tạo hóa chỉ là một lập trường, để giải thích các sự kiện bên ngoài như nguồn gốc của thế giới mà họ không thể hiểu thấu. Họ quan niệm đó là một đối tượng của đức tin có thể tạo ra một cảm giác mạnh mẽ bên cạnh sự hiện diện an ủi của đấng tạo hóa và sự gần gũi với chính mình. Chẳng hạn như ấn tượng thời thơ ấu, hình ảnh huyền thoại của những ông Bụt, cô Tiên đi vào truyền thống, học đường và môi trường xã hội đã tác động vào bề mặt của vỏ não, tạo nên những hình ảnh của tư tưởng mà tín đồ của các tôn giáo đã có một lề lối khái niệm chân thành nhất.

Trong tư tưởng Phật giáo Ấn Độ thời xưa bác bỏ một cách rõ ràng ý niệm về vĩnh cửu, đã nêu lên thuyết vạn vật thay đổi, trong đó thuyết Duyên khởi đóng vai trò chủ đạo, để thay thế vai trò của Thượng đế Toàn năng hay đấng Sáng tạo. Quan niệm về các vị thần linh, mặc dù có trong Phật giáo nhưng đó không phải là điểm trọng tâm của giáo lý hay được sử dụng như là nền tảng của giáo lý Phật giáo. Như vậy, sự hiện hữu của mọi sự vật hiện tượng theo Phật giáo là tùy thuộc nhiều “nhân”, nhiều “duyên” phát sinh, không ai tạo ra nó cả. Nguyên lý Duyên khởi đó đã được Đức Phật tóm tắt trong kinh Phật tự thuyết như sau:

“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.

Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt. Do cái này sinh nên cái kia sinh.

Do cái này diệt nên cái kia diệt” [16, tr. 291].


Với cuộc sống hiện đại, không cần sự thưởng phạt của một đấng tối cao, giá trị đạo đức của Phật giáo trên căn bản năm giới (1) và Thập thiện (2) đã cung ứng cho



1 Năm giới: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cắp, 3. Không tà dâm, 4. Không nói dối, 5. Không uống rượu.

2 Thập thiện là mười việc làm tốt lành, mang lại lợi ích cho con người trong hiện tại và tương lai. gồm có: Thân: 1. Không sát sanh, 2. Không trộm cướp, 3. Không tà dâm; Khẩu: 4. Không nói dối,

5. Không nói thêm bớt, 6. Không nói hai chiều, 7. Không nói lời ác; Ý: 8. Không tham lam, 9. Không giận dữ, 10. Không si mê.

Xem tất cả 270 trang.

Ngày đăng: 17/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí