Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 6

triển trung bình trên thế giới; cơ chế kế hoạch hoá tập trung tuy được tuyên bố xoá bỏ, nhưng những ảnh hưởng sâu đậm của cơ chế này vẫn còn tiếp tục diễn ra trên nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước; sự phát triển nhanh chóng trên thế giới về khoa học và công nghệ, về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thì về nguyên nhân chủ quan cần được phân tích kỹ nhằm tạo một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng các giải pháp tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước trong thời gian tới. Các nguyên nhân này chủ yếu bao gồm:

Thứ nhất, nhận thức về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn hạn chế.

- Luận điểm kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nhân loại, không phải là của riêng chủ nghĩa tư bản đã được nêu ra từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới đến nay đã gần 20 năm nhưng vẫn chưa thu hút được sự đồng thuận trong xã hội, chưa nêu ra được những luận cứ đủ sức thuyết phục để loại bỏ những nghi ngại trong phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

- Luận cứ về sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vẫn dừng lại ở một số nội dung về mục tiêu chính trị và xã hội, thiếu những nội dung về mục tiêu kinh tế.

- Lý luận về phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường trong nền kinh tế hiện vẫn chưa tạo ra được những căn cứ xác đáng để hoạch định thành các chủ trương, chính sách hữu hiệu cho sự ra đời và hoạt động bình thường của các yếu tố cung - cầu, giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh... trong các thị trường hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ, vốn, khoa học công nghệ...

- Lý luận về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa đến nay ngoài việc xác định được những vai trò, chức năng, công cụ, phương pháp quản lý giống như quản lý nhà nước trong các nền kinh tế thị trường thì vẫn chưa xác định được sự khác nhau cơ bản trong quản lý nhà nước giữa hai nền kinh tế đó.

Do thiếu nhiều căn cứ quan trọng về lý luận dẫn dắt nên mô hình quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua đã hình thành và phát triển theo phương thức “vừa thiết kế vừa thi công”, không tránh khỏi tình trạng phải sửa đổi, bổ sung, phá đi làm lại... Điều đó đã trực tiếp làm suy giảm nhiều thành tựu có có thể đạt được trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới vừa qua, đồng thời làm phát sinh thêm những hậu quả phải khắc phục trong thời gian tới.

Những hạn chế trong lĩnh vực lý luận trên đây có lý do bắt nguồn từ những hạn chế trong công tác tổ chức nghiên cứu lý luận về quản lý kinh tế của Việt Nam trong những năm qua. Các nhà khoa học quản lý, các tổ chức nghiên cứu khoa học quản lý chưa chủ động tổ chức việc nghiên cứu, thường thụ động làm theo đặt hàng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đặc biệt là trong các dịp có kỳ họp Đại hội Đảng, kỳ họp Ban chấp hành Trung ương Đảng, kỳ họp Quốc hội, kỳ họp Chính phủ. Kết quả khoa học được công bố trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và trong các công trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ... chiếm ưu thế tuyệt đối so với công bố của cá nhân và tổ chức nghiên cứu ngoài nhà nước. Tính đơn điệu này đã hạn chế sự phong phú, đa dạng trong việc xác định các căn cứ lý luận để xây dựng các phương án, các mô hình quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ đó có thể lựa chọn được phương án, mô hình tối ưu hơn so với những gì đã có hiện nay.

Thứ hai, chính sách tài chính quốc gia chậm đổi mới để phù hợp với cơ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 58 trang tài liệu này.

chế thị trường

Đối với vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều bất cập ví như việc chi tiêu bao cấp về nhà ở, xe, điện thoại cho công chức còn rất nặng nề. Chúng tôi đồng ý vẫn cần thiết phải có những bao cấp cần thiết để duy trì hoạt động điều hành của bộ máy công quyền, nhưng mức độ và phạm vi đến đâu là phải tính toán lại. Hiện nay đối tượng được hưởng bao cấp về nhà ở, xe, điện thoại quá rộng. Chẳng hạn chỉ riêng lĩnh vực xe ô tô có 15.500 xe ô tô con các loại. Với giả thiết 200 triệu đồng/1xe, thì tổng vốn là 3.000 tỷ đồng, và hàng năm ta phải chi hàng trăm tỷ đồng cho xăng dầu, sửa chữa, bảo dưỡng, lệ phí bảo hiểm... chưa kể tiền lương và công tác phí của 15.500 lái xe. Nếu như xoá bỏ hoàn toàn bao cấp hiện nay về nhà ở, xe, điện thoại, thì chúng ta cũng có thể chuyển phần không nhỏ chi thường xuyên bao cấp sang tiền lương mỗi năm.

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 6

- Một khoản chi khác của Ngân sách Nhà nước mà chúng tôi thấy cần phải xem xét lại là chi cho đầu tư phát triển và các chương trình mục tiêu, khoản chi này quá lớn và chưa hợp lý.

Hiện nay, hàng năm ngân sách Nhà nước bỏ vào khoản chi này khoảng

24.000 đến 25.000 tỷ đồng, chiếm hơn 1/3 chi ngân sách. Mức chi tiêu cho đầu tư phát triển như vậy là quá lớn so với khả năng ngân sách.

Thêm vào đó, chi cho đầu tư phát triển lớn như vậy nhưng có hiệu quả hay không là cần xem xét lại, vì công luận đã nêu nhiều công trình đầu tư phát triển của ta là chưa có hiệu quả.

Đối với chi cho đầu tư phát triển

Hơn nữa, về nguyên lý, chi cho đầu tư phát triển là chi cho C và V. Hiện nay chúng ta chưa tách được khoản chi tiêu cho V ra khỏi chi đầu tư phát triển, nhưng trong thực tế, từ khoản chi tiêu này, một bộ phận đã trở thành thu nhập của nhóm người có liên quan tới hoạt động đầu tư và các

chương trình mục tiêu. Vì vậy, cần thiết phải tách bóc khoản chi tiêu này cho

V. Chúng tôi cho rằng, với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật hiện nay, nếu cấu tạo hữu cơ là 4/1 thì chúng ta có thể bóc tách được 5000 tỷ chi đầu tư phát triển bỏ vào quĩ tiền lương.

Thứ ba, bộ máy tổ chức quản lý của nhà nước chậm đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường.

Bộ máy quản lý được coi là “phần cứng” của hệ thống quản lý. Thông thường, phần cứng luôn khó thay đổi hơn so với phần mềm. Tuy nhiên, điều đáng nhấn mạnh ở đây là bộ máy quản lý của nhà nước đã lạc hậu khá xa và có độ trễ khá dài so với những đổi mới trên hoạt động thực tiễn của đời sống kinh tế, xã hội.

- Bộ máy quản lý phải mất nhiều năm (thường từ 5 đến 10 năm) mới thiết kế được phần mềm cho việc đưa ra những chủ trương đổi mới kinh tế vào cuộc sống (thành phần kinh tế tư nhân được Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thừa nhận, nhưng phải đến năm 1992 mới được ghi nhận vào Hiến pháp, và trên thực tế phải đến năm 1996 mới được triển khai bước đầu với Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty).

- Bộ máy quản lý luôn tỏ ra quá tải trong thực hiện những công việc đổi mới quản lý đã được pháp luật qui định (từ năm 1992 đã thực hiện việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhưng 10 năm sau, đến năm 2002 mới cơ bản thực hiện được việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ruộng cho các hộ nông dân, trong khi đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với đất ở đô thị mới cấp được trên 20% so với nhu cầu; Mục tiêu hoàn thành việc cấp loại giấy này cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất với hạn định năm 2003 đã phải lùi lại đến năm 2005, tuy vậy vẫn tiềm ẩn nguy cơ phải lùi thêm. Sự quá tải của các Phòng Công chứng cũng rất chậm được khắc phục.

- Bộ máy quản lý khắc phục rất khó khăn, chậm trễ. Tình trạng cồng

kềnh, nhiều nấc với những thủ thục phiền hà trong hoạt động thực tiễn của mình. Quan hệ xin-cho với nhiều dấu, nhiều cửa, nhiều chi phí ngoài qui định... đã làm nản lòng nhiều nhà đầu tư, nhiều công ty trong và ngoài nước.

Trong cuộc điều tra của đề tài KX 01.09, khi được yêu cầu đánh giá về mức độ phù hợp (đối với yêu cầu phát triển kinh tế) trong sự phân công quản lý giữa Bộ quản lý ngành, Bộ quản lý lĩnh vực, Bộ quản lý tổng hợp thì 206 phiếu trả lời cho kết quả như sau: Bộ quản lý ngành có mức độ phù hợp đạt điểm trung bình là 2,98/5; Bộ quản lý lĩnh vực đạt 2,96/5; Bộ quản lý tổng hợp đạt 3,03/5. Như vậy, so với yêu cầu phát triển kinh tế thì sự phân công quản lý giữa các Bộ chỉ đạt độ phù hợp ở mức trung bình trở xuống.

Khi được yêu cầu đánh giá về mức độ phù hợp (đối với yêu cầu phát triển kinh tế) trong sự phân cấp quản lý giữa Trung ương với địa phương thì 206 phiếu trả lời cho kết quả là : sự phân cấp đối với cấp xã, phường, thị trấn về quản lý đầu tư, quản lý ngân sách, quản lý đất đai, quản lý lao động, quản lý giáo dục và đào tạo, quản lý y tế đều được đánh giá là phù hợp ở mức độ thấp (trung bình trở xuống). Đáng chú ý là trong 6 lĩnh vực phân cấp được điều tra trên đây thì chỉ có phân cấp quản lý đầu tư cho cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được đa số (36,4%) đánh giá ở mức “rất phù hợp”.

- Đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước còn nhiều hạn chế.

Trong đội ngũ cán bộ quản lý đang diễn ra hai quá trình trái ngược nhau: một bên là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn đang ngày càng học tập và tiếp cận được nhiều hơn, đầy đủ hơn với những tiến bộ (về lĩnh vực quản lý) trên thế giới; một bên là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý đang có những bộ phận ngày càng đuối hơn thế hệ trước (ở trong nước) cả về tài và đức. Một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức có quyền ở các cấp quản lý trong bộ máy nhà nước đã tha hoá, biến chất, trở thành những tội phạm kinh tế, gây bất bình trong xã hội; một bộ phận khác (đặc biệt là ở

các cấp địa phương) đang thiếu năng lực về quản lý kinh tế- xã hội theo các phương pháp kinh tế, thiếu năng lực về sử dụng các công cụ và chính sách thị trường, từ đó đã tạo ra những trì trệ, ách tắc trong đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở nhiều ngành, địa phương.

Bên cạnh đó, công tác tuyển dụng cán bộ cho bộ máy quản lý kinh tế nhà nước mặc dù đã qua nhiều đợt cải tiến nhưng tới nay vẫn tiến chậm so với những chuyển biến của thị trường lao động. Trong nhiều năm qua, hàng loạt cơ quan quản lý không tuyển dụng hoặc tuyển dụng không đáng kể cán bộ nhân viên trước áp lực của việc thực hiện giảm biên chế 10-15% mỗi năm. Kết quả là đã xảy ra sự hẫng hụt cán bộ kế cận tại nhiều cơ quan khi hàng loạt cán bộ về hưu mà chưa sẵn sàng có lực lượng bổ sung hữu hiệu.

Việc tuyển dụng cán bộ mặc dù đã được thực hiện qua thi tuyển với các thủ tục và chuẩn mực được pháp luật qui định, nhưng trên thực tế đã diễn ra khá phổ biến hiện tượng coi trọng hình thức (bằng cấp, điểm học tập...) hơn so với thực chất (năng lực quản lý...). Nhược điểm này không chỉ làm cho việc tuyển dụng trở nên không công bằng đối với mọi đối tượng dự tuyển mà còn tạo ra những kẽ hở để những nhân tài có thể bị gạt ra ngoài sự tuyển dụng.

Cùng với đó là việc bố trí, sắp xếp cán bộ. Đối với cán bộ thuộc hệ thống dân cử, việc bố trí, sắp xếp cán bộ, trên thực tế đã được cơ bản hoàn tất từ khâu chọn người ra ứng cử. Mặc dù tiêu chuẩn và thủ tục đề cử và ứng cử đã được luật định, nhưng việc xác định cơ cấu cán bộ để cử tri lựa chọn đã tạo ra những kẽ hở dễ bị lợi dụng, dễ xảy ra tiêu cực tại các tổ chức hiệp thương về bầu cử khi phải cân nhắc đưa người có tài đức hay người bảo đảm cơ cấu vào danh sách ứng cử. Việc đề cao phương pháp đề cử hơn so với ứng cử, việc định tỷ lệ bầu chọn quá cao trong danh sách ứng cử viên (7 chọn 5, hoặc 5 chọn 4) đã chẳng những làm cho sự lựa chọn của cử tri trở nên đơn điệu mà

còn làm cho nhiều người đủ tiêu chuẩn tài đức đã phải đứng ngoài sự bầu chọn của cử tri. Những nhược điểm trên đây dẫn đến kết quả là đã để không ít người yếu kém về năng lực và đạo đức được bầu vào cơ quan dân cử ở các cấp. Những người này chẳng những không thúc đẩy mà còn cản trở công cuộc cải cách, đổi mới tại các vị trí công tác mà họ đảm nhiệm.

Cán bộ thuộc hệ thống dân cử đảm nhiệm các chức vụ chuyên trách khi hết nhiệm kỳ và không tái cử thường được chuyển đến công tác tại các cơ quan chuyên nghiệp nhà nước, trong đó không ít trường hợp thiếu năng lực khi được sắp xếp, bố trí đảm nhiệm các chức vụ quản lý kinh tế. Tình trạng bố trí cán bộ không xuất phát từ yêu cầu công việc như vậy càng làm cho bộ máy quản lý tuy đông người nhưng vẫn yếu và thiếu năng lực làm việc.

Đối với cán bộ thuộc hệ thống công chức, viên chức nhà nước, trong việc đề bạt, nâng cấp đã thường xảy ra những lệch lạc, khi thì coi trọng về thâm niên, khi thì nhấn mạnh về tuổi trẻ, khi lại đề cao về bằng cấp... trong khi chuẩn mực về năng lực hoạt động thực tiễn lại bị xem nhẹ hoặc bỏ qua. Sự lệch lạc này có nhiều nguyên nhân nhưng tất cả đều làm cho đội ngũ công chức viên chức nhà nước luôn luôn thiếu một cơ cấu hợp lý về tuổi tác (khi thì tuổi bình quân quá cao, khi thì bị trẻ hoá một cách đột ngột), về kỹ thuật nghiệp vụ chuyên môn (cán bộ tham mưu quá dư thừa trong khi cán bộ quản lý, điều hành quá thiếu)... Sự lệch lạc này không loại trừ việc nhiều nhân tài chưa được trọng dụng, đồng thời nhiều người lại được bố trí sắp xếp đảm nhiệm các chức vụ quản lý cao so với tài và đức còn thấp của họ.

Sự lạc hậu của công tác cán bộ so với những tiến triển của nền kinh tế theo hướng thị trường trên đây đã ảnh hưởng tiêu cực, trở thành một trong những nguyên nhân chủ yếu của các mặt còn chưa được trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.

2.3. Phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò kinh tế của nhà

nước trong nền kinh tế thị trường ở việt Nam những năm tới

2.3.1. Phương hướng hoàn thiện vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta những năm tới

2.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp

Trong những năm qua, hệ thống luật pháp (trong đó có pháp luật kinh tế) ở nước ta đã và đang từng bước được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn. Song vẫn thiếu tính đồng bộ và thiếu tính nhất quán. Do vậy, trong những năm tới, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống luật pháp (trong đó có pháp luật kinh tế) cần được hoàn thiện theo hướng sớm dỡ bỏ tất cả các rào cản để các loại hình doanh nghiệp thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh trong khuôn khổ của luật pháp cho phép. Việc dỡ bỏ ấy phải được thực hiện trên cơ sở pháp lý của các loại hình pháp luật: (1) quy phạm về hành vi của chủ thể trên thị trường, (2) duy trì trật tự thị trường và (3) phát triển đồng bộ hệ thống thị trường và các yếu tố thị trường. Cụ thể là:

* Sớm xây dựng được một hệ thống luật pháp đầy đủ hơn phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Trước hết, cần sớm ban hành những văn bản dưới luật đảm bảo thực thi nhanh, đúng đắn luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.

Tiếp đến, cần xúc tiến xây dựng và sớm ban hành luật thuế chống bán phá giá, luật kinh doanh bất động sản, luật chống đầu cơ, luật chi ngân sách nhà nước, luật kế hoạch... Đây là những luật quan trọng tạo ra tính minh bạch về mặt bằng pháp lý cho các hoạt động trong nền kinh tế.

Bên cạnh việc tiếp tục xây dựng và ban hành mới một số luật như trên, cần phải xúc tiến thực hiện có hiệu quả việc rà soát lại toàn bộ hệ thống luật pháp và các văn bản hiện hành để phát hiện và sửa đổi kịp thời những luật còn chồng chéo; những văn bản, chính sách nào chưa phù hợp hoặc còn thiếu, đặc biệt là chưa phù hợp với cam kết và luật pháp, thông lệ quốc tế, trước hết là

các nguyên tắc của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

- Xúc tiến việc xây dựng một mặt bằng luật pháp cho các loại hình doanh nghiệp, theo đó tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều bị điều chỉnh bởi một luật chung, không để tản mạn như hiện nay cụ thể là tiến tới xây dựng luật doanh nghiệp chung thay thế các luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp nhà nước, luật Hợp tác xã; Luật Đầu tư chung cho Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước...

- Ban hành kịp thời, đầy đủ và đồng bộ hơn các văn bản dưới luật và văn bản hướng dẫn để luật đã ban hành sớm đi vào cuộc sống. Trong những năm qua, các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn không kịp thời, không đồng bộ, chưa đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch. Điều đó đã gây không ít cản trở, ách tắc đối với sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của người dân, của các doanh nhân trong nước và nước ngoài. Để nâng cao chất lượng của hệ thống luật pháp cần đổi mới cách thức làm luật theo một quy trình hợp lý hơn với sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia luật, các nhà quản lý, người kinh doanh và công chúng. Những chuyên gia này không phải ở từng ngành chuyên biệt và không chỉ am hiểu từng ngành, mà là được tạo dựng thành một bộ phận công tác mang tính liên ngành. Họ không chỉ hiểu biết ngành, mà còn có tầm bao quát chung. Điều đó cho phép khắc phục tới mức thấp nhất xung đột về lợi ích do các văn bản pháp quy tạo ra.

- Để góp phần đảm bảo luật pháp và các văn bản pháp quy đã ban hành thực sự đi vào cuộc sống thì bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục và có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người, mọi tổ chức có nhận thức đầy đủ và để sống và tự giác làm việc theo pháp luật, cần phải có cơ chế để cho nhân dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước kiểm tra, giám sát lại đối với các cơ quan thực thi pháp luật (cơ quan hành pháp), cũng như cơ chế nghiêm chỉnh thi hành và cưỡng chế thi hành luật đối với mọi công dân và các tổ chức

kinh tế, xã hội.

2.3.1.2. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng cường sản xuất hàng hoá công cộng. Xử lý tình trạng độc quyền doanh nghiệp

Như đã nói nền kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có tính quy luật của việc phát triển kinh tế trong tương lai. Vì vậy vấn đề đặt ra là tiếp tục đa dạng hoá sở hữu mà mấu chốt là sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước.

Như chúng tôi đã trình bày trên, trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vai trò đó thể hiện ở chỗ, nó đảm bảo được hiệu quả kinh tế xã hội cho nền kinh tế. Để thực hiện vai trò đó, doanh nghiệp nhà nước cần được phát triển trong những lĩnh vực có ý nghĩa mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển; Nó đảm bảo sản xuất hàng hoá công cộng, còn lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi nên giành cho các thành phần kinh tế khác phát triển; Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước phải trở thành một công cụ để nhà nước có thể khắc phục được những khiếm khuyết của kinh tế thị trường.Tuy nhiên, để thực hiện được vai trò đó, cần phải có một thời gian để sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, dưới nhiều hình thức khác nhau, mà hiện nay chúng ta đang tiến hành biện pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

Cần thấy rằng, chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế nước ta. Song từ khi có chủ trương cổ phần hoá đến nay đã được khoảng 8 năm mà chúng ta mới cổ phần hoá được một số ít doanh nghiệp. Có nhiều nguyên nhân làm quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm từ việc xác định đối tượng, hình thức tổ chức thực hiện, các quy trình tiến hành, vấn đề đánh giá giá trị tài sản, giải quyết lợi ích cho người lao động và đội ngũ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước, vấn đề chuẩn bị tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục, đến các thủ tục pháp lý và môi trường chính sách cho các doanh nghiệp cổ phần hoá.

Vì vậy để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, cần giải quyết những vấn đề trên đây.

Cổ phần hoá là một biện pháp, tuy nhiên không phải là duy nhất để đa dạng hoá sở hữu ở nước ta. Bên cạnh cổ phần hoá trong những năm tới, cần đẩy mạnh những hình thức khác như, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu doanh nghiệp... Nói cách khác là phát triển mạnh các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.

Từ phân tích ở phần trên về thành phần kinh tế doanh nghiệp nhà nước, chúng tôi cho rằng, việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới cần theo những định hướng cơ bản sau đây:

Một là, doanh nghiệp nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực có tính chất dẫn dắt, mở đường cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo sản xuất ra những hàng hoá công cộng và một số lĩnh vực có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực sinh lợi nhuận hiện nay cần từng bước đa dạng hoá.

Hai là, con đường đa dạng hoá doanh nghiệp sinh lợi của nhà nước hiện nay cần được thực hiện thông qua biện pháp cổ phần hoá, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng... tức là thông qua các hình thức khác nhau của kinh tế tư bản nhà nước .

Ba là, biện pháp Tổng công ty hoá các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp các Tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với cạnh tranh nước ngoài, đI đôI với việc xây dựng mô hình Tổng công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty.

Bốn là, cùng với việc sắp xếp lại phải tăng cường năng lực nội sinh của các doanh nghiệp Nhà nước, phải có chính sách về nguồn vốn kinh doanh, cải tiến tổ chức quản lý và phân phối trong phạm vi doanh nghiệp Nhà nước sao

cho chúng dần dần đóng vai trò chủ đạo, mở đường, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác.

2.3.1.3. Hoàn thiện công cụ tài chính, thuế, lãi suất để điều tiết kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường

Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp sau: từng bước tạo sự bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp được ưu đãi miễn, giảm thuế; mở rộng phạm vi các khoản chi phí được trừ khi xác định thuế lợi tức chịu thuế; không đánh thuế đối với khoản lợi nhuận tái đầu tư và thuế chuyển nhượng vốn; thay thế cơ chế quyết định hành chính tín dụng nhà nước bằng cơ chế tín dụng thị trường, bảo đảm các doanh nghiệp làm ăn có lãi, có thị trường, trả được nợ đều có cơ hội ngang nhau được sử dụng tín dụng nhà nước.

2.3.1.4. Cải cách chính phân phối thu nhập, xây dựng hệ thống an sinh xã hội để đảm bảo bình đẳng xã hội

Rút kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mấy chục năm qua, đồng thời nghiên cứu và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đi trước cũng như tiếp thu các lý thuyết của các nhà khoa học trên thế giới, việc nhận thức và giải quyết vấn đề BĐXH ở nước ta hiện nay, theo tôi, cần thống nhất một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, cần đổi mới về nhận thức bình đẳng xã hội cho phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.

Hai là, cần xây dựng một hệ thống biện pháp giải quyết vấn đề bình đẳng xã hội.

Trong những năm tới, nước ta cần tập trung giải quyết những vấn đề:

- Điều chỉnh và phân phối hợp lý tư liệu sản xuất (điều kiện vật chất tạo ra cơ hội bình đẳng cho mọi người

- Để mọi người dân đều có điều kiện được hưởng nền giáo dục cơ bản, chăm sóc sức khoẻ, được hướng dẫn và đầu tư về nghề nghiệp, cần có các

chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng về xã hội, phân bố cán bộ chuyên môn và giáo viên cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.

- Tôn trọng và bảo đảm việc thực hiện các nguyên tắc phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó lấy nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ yếu.

- Nhà nước sớm giải quyết một cách dứt điểm chính sách tiền lương,

2.3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện vai trò kinh tế của nhà nước ở nước ta những năm tới

2.3.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế được hình thành trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm trong thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Khởi đầu của mô hình này là việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển sản xuất hàng hoá, cho sản xuất "bung ra" tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV (năm 1979). Tiếp đến là Đại hội VI (12-1986), trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đã khẳng định: "Quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hoá. Thời điểm này vẫn chưa thực sự coi trọng cơ chế thị trường, tính kế hoạch vẫn là đặc trưng số một, còn quan hệ hàng hoá - tiền tệ ở vị trí thứ hai. Tiếp theo Đại hội, một số Hội nghị Trung ương diễn ra trong năm 1987 đã đưa ra nhiều quyết sách liên quan tới hình thành tư duy thừa nhận chủ trương vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế. Những quyết sách đó bao trùm lên các lĩnh vực quan trọng như đầu tư nước ngoài, đất đai, ngoại thương,

quản lý công nghiệp quốc doanh, khu vực tư nhân, cá nhân và gia đình. Sự chuyển hướng mang tính quyết định ra khỏi hệ tư tưởng kế hoạch hoá tập trung được diễn đạt theo lối ẩn dụ, Nhà nước như một nhạc trưởng của dàn nhạc quốc gia, chứ không phải là người kiểm soát cỗ máy kinh tế.

Đại hội VII (6-1991) tiến thêm một bước về nhận thức lý luận bằng việc xác định: "Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác".

Đại hội VIII (6-1996), trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới, đã khẳng định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng" Từ đó Đảng đưa ra chủ trương: "...phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Tới lúc đó, Đảng mới nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, mà chưa sử dụng khái niệm “kinh tế thị trường”.

Phải đến Đại hội IX (4-2001) Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa mang những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại đã và đang tồn tại và phát triển ở các nước trên thế giới, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể

của Việt Nam. Xét về bản chất, nó là một mô hình tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có các đặc trưng chủ yếu sau:

- Hệ thống mục tiêu: Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hướng tới mục tiêu tổng quát là thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

- Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, dựa chủ yếu vào hai hình thức sở hữu với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, sang nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế được hình thành khá đa dạng: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước; và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là một trong những nét chủ yếu nhất của nền kinh tế nước ta xét trên góc độ là đối tượng của quản lý Nhà nước.

Theo quan điểm của Nhà nước ta, dù bất kỳ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào cũng phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phải biết cách làm giàu cho bản thân và có đóng góp cho xã hội. Do đó, trong quản lý doanh nghiệp phải tránh mọi sự phân biệt đối xử, thái độ kỳ thị đối với doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước (toàn dân), đảm bảo cho mọi doanh nghiệp được thực sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển và trong các hoạt động kinh doanh.

- Cơ chế quản lý kinh tế: Kết hợp giữa phát huy tác dụng của cơ chế thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực, điều tiết sản xuất và kích thích phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động với tăng cường vai trò định

Xem tất cả 58 trang.

Ngày đăng: 15/04/2022