Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 2


mua để "tiếp sức thêm cho kinh tế tư nhân". Để có tiền thực hiện những khoản này phải tăng chi phí Nhà nước. Đến lượt nó, để tăng nguồn chi phí này Nhà nước cần phải tăng thêm thuế đối với dân cư, tăng nợ Nhà nước, thực hiện lạm phát có mức độ.

Thứ ba, các nhà kinh tế học Mỹ coi ngân sách Nhà nước là công cụ chủ yếu để điều chỉnh nền kinh tế Mỹ. Họ gọi đó là "công cụ ổn định bên trong" của nền kinh tế. Nó bao gồm: thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp. Họ thấy rằng cần phải sử dụng "công cụ" này tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế. Khối lượng thuế tăng lên trong thời kỳ hưng thịnh và giảm đi trong thời kỳ khủng hoảng. Còn bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp thì ngược lại, tăng lên trong thời kỳ khủng hoảng và giảm đi trong thời kỳ hưng thịnh.

Thứ tư, bên cạnh các công cụ ổn định bên trong là "các biện pháp điều hoà". Biện pháp này nhằm điều chỉnh đầu tư tư bản của tư nhân và sử dụng linh hoạt chi phí Nhà nước. Trong thời kỳ hưng thịnh thì hạn chế chi phí Nhà nước. Trong thời kỳ khủng hoảng cần tăng chi phí Nhà nước để bù đắp lại cho sự giảm sút của chi phí đầu tư tư nhân. Sự tăng chi phí Nhà nước trong thời kỳ này không dừng lại dù cho ngân sách có bị thâm hụt lớn.

Thứ năm, những người theo phái Keynes ở Mỹ còn bổ sung thêm cho nguyên lý số nhân của Keynes một nguyên lý khác là "gia tốc". Theo họ sự kết hợp chặt chẽ hai nguyên lý này khả dĩ chủ động tạo ra "suy thoái" hay "mở rộng" đáy hay là đỉnh của chu kỳ kinh doanh từ đó chủ động điều chỉnh kinh tế, chống chu kỳ.

- A.Haxen bổ xung cho việc giải thích nguyên nhân khủng hoảng kinh tế bằng "sự ngừng trệ". Theo thuyết này, khủng hoảng kinh tế do các động lực phát triển kinh tế bị yếu đi, mà những động lực này là do các yếu tố bên ngoài tác động đến. Ví dụ, dân số tăng lên chậm chạp, không còn các vùng đất "tự

do", tiến bộ kỹ thuật chậm. Sau này, các nhà kinh tế học Mỹ còn bổ sung cho lý thuyết về nhân tố bên ngoài dẫn đến khủng hoảng kinh tế, như những cuộc chiến tranh, cách mạng, tìm ra vàng, những cuộc bầu cử. Từ đó họ đưa ra lý thuyết về chu kỳ kinh doanh chính trị. Theo thuyết này, sau các cuộc bầu cử, các nhà chính trị để một đến hai năm áp đặt chính sách khắc khổ đối với nền kinh tế, nâng mức thất nghiệp, tăng số nhà máy không hoạt động để làm giảm sức ép của lạm phát. Sau đó, khoảng một năm trước ngày ngày bầu cử, họ tìm biện pháp kích thích kinh tế phát triển lên, như giảm thuế, tăng lương, thuyết phục Cục dự trữ liên bang giữ lãi suất ở mức thấp. Do vậy khi người dân đến hòm phiếu thì chỉ còn thấy sự phồn thịnh, chứ không thấy suy thoái kinh tế.

Thứ sáu, các nhà kinh tế học Mỹ coi chi phí chiến tranh là phương tiện tốt nhất để ổn định tình hình thị trường, kinh tế chiến tranh là kiểu kinh tế đặc biệt để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp. Nhờ có sản xuất vũ khí chiến tranh mà tư bản độc quyền thu được lợi nhuận cao, kích thích mở rộng sản xuất, ổn định thị trường, kéo dài thời gian xuất hiện khủng hoảng.

J.M.Keynes và những người theo ông ở các nước tư bản phát triển hy vọng vào việc Nhà nước, thông qua việc sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô sẽ chống được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo được sự ổn định cho quá trình phát triển kinh tế. Song những chấn động lớn trong nền kinh tế TBCN vẫn diễn ra. Hơn nữa, thêm vào tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp là lạm phát ngày càng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải có những lý thuyết mới.

Rõ ràng yêu cầu phát triển của sản xuất xã hội hoá cao đòi hỏi Nhà nước tư sản phải can thiệp vào kinh tế. J.M Keynes đã đưa ra lý thuyết đáp ứng yêu cầu này. Song sự khiếm khuyết lớn nhất trong lý thuyết của ông là ở chỗ ông chưa đánh giá đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường, tự do hoạt động của doanh nhân theo cung cầu giá cả hàng hoá. Như các nhà kinh tế học cổ

điển mới nhận xét là, trường phái Keynes đã "chĩa khẩu pháo hạng nặng của nó vào các vấn đề thị trường" (Samuelson T2, tr.424). Từ đó, một yêu cầu bức xúc đặt ra cho các nhà kinh tế học tư sản là phải đưa ra được lý thuyết phối hợp cả sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của cơ chế thị trường để điều tiết kinh tế. Một trong các lý thuyết tư sản hiện đại phát triển theo hướng này là chủ nghĩa tự do mới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 58 trang tài liệu này.

Về cơ bản, chủ nghĩa tự do mới nhằm khôi phục lại các tư tưởng của chủ nghĩa tự do, trong thời đại mới. Tư tưởng cốt lõi của nó là sử dụng cơ chế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ nhất định. Theo họ các vấn đề kinh tế cần phải được giải quyết thông qua hệ thống kinh tế thị trường là chính, sự can thiệp của Nhà nước nên giữ lại trong chừng mực nào đó thôi. Họ đưa ra khẩu hiệu: "cạnh tranh thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn". Chủ nghĩa tự do mới phát triển ở nhiều nước với các tên gọi khác nhau: chủ nghĩa bảo thủ mới ở Mỹ gồm có chủ nghĩa trọng tiền hiện đại, trường phái trọng cung, trường phái dự kiến hợp lý, kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hoà Liên bang Đức, chủ nghĩa giới hạn mới ở Thuỵ Điển, Chủ nghĩa chỉ huy tự do mới ở Pháp...

Chủ nghĩa trọng tiền được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX. Người đứng đầu trường phái này là một nhà kinh tế học nổi tiếng Mỹ: Milton Friedman. Nền tảng xuất phát của lý thuyết trọng tiền là quan điểm về số lượng tiền tệ và vai trò của nó ngày càng tăng lên trong hoạt động kinh tế. Họ đã thay nguyên lý "Tiền là quan trọng" bằng nguyên lý "Chỉ có tiền là quan trọng". Với lập luận như vậy, người ta thấy rằng chủ nghĩa trọng tiền hiện đại tái hiện lại những quan điểm tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương thế kỷ XV -

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 2

XVII. Trong giai đoạn CNTB tích luỹ nguyên thuỷ cho nền sản xuất lớn ra đời, tiền tệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Các nhà kinh tế học cho rằng, tiền tệ là của cải duy nhất phản ánh sự giàu có của quốc gia. Đất nước càng có nhiều

tiền thì càng giàu. Sự giàu có tích luỹ dưới hình thức tiền tệ là sự giàu có muôn đời, vĩnh viễn. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng tiền hiện đại khác với chủ nghĩa trọng tiền sơ khai của chủ nghĩa trọng thương. Nếu như chủ nghĩa trọng tiền sơ khai chưa hiểu được bản chất về tiền và các quy luật vận động của nó thì chủ nghĩa trọng tiền hiện đại đã biết kết hợp các hiểu biết của chủ nghĩa trọng thương, của trường phái cổ điển, cổ điển mới, trường phái Marx và trường phái Keynes để đưa ra lý thuyết của mình. Quan điểm trung tâm của chủ nghĩa trọng tiền hiện đại là giả thuyết về tính ổn định bên trong của nền kinh tế TBCN, dưới sự tác động tự do của thị trường, mà vai trò kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực tín dụng, tiền tệ chỉ dừng lại ở mức độ tối thiểu.

Quan điểm của chủ nghĩa trọng tiền hiện đại phủ định nguyên tắc của Keynes về sự can thiệp của Nhà nước bằng chính sách thuế khoá và tiền tệ. Theo Keynes chính sách tài chính (thuế khoá và chi tiêu của chính phủ) ảnh hưởng tới biến số của kinh tế vĩ mô. Ngược lại, phái trọng tiền cho rằng, chính sách tài chính chỉ liên quan đến việc phân phối thu nhập quốc dân cho quốc phòng hay cho tiêu dùng công cộng. Còn các biến số của kinh tế vĩ mô như thu nhập quốc dân, việc làm, giá cả chịu ảnh hưởng quyết định của mức cung tiền tệ. Nếu ký hiệu: M là mức cung tiền tệ. V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ trong năm, thường thì nó ổn định, Q là khối lượng hàng hoá, P là giá cả trung bình của hàng hoá dịch vụ thì:

MV = PQ

Ở đây vì V cố định, Q không phụ thuộc hoặc phụ thuộc rất ít vào M, chỉ có P là phụ thuộc vào mức cung tiền tệ do đó khi thay đổi M thì P và PQ thay đổi.

Theo M. Friedman, mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao. Vì nó phụ thuộc vào các chỉ tiêu của nền kinh tế, trước hết là thu nhập quốc dân. Ngược

lại, mức cung tiền tệ lại không ổn định và nó phụ thuộc vào các quyết định chủ quan của hệ thống ngân hàng. Nếu ngân hàng phát hành ra một khối lượng tiền tệ cao hơn hay thấp hơn mức cầu tiền tệ sẽ dẫn đến lạm phát hoặc khủng hoảng. Từ đó ông đưa ra những đề nghị thực tiễn về chu kỳ tiền tệ và thu nhập quốc dân. Theo ông, trong giai đoạn khủng hoảng mức cung tiền tệ nên tăng lên. Trong giai đoạn hưng thịnh, mức cung tiền tệ nên giảm xuống. Song nhìn chung, mức cung tiền tệ nên được tăng lên theo một tỉ lệ ổn định từ 3% - 4%. Ông cho rằng, vì tiền tăng lên ổn định nền thu nhập quốc dân tăng lên ổn định. Điều đó ngăn chặn những hiện tượng không ổn định trong nền kinh tế, làm cho giá cả ổn định và đảm bảo được tốc độ tăng trưởng theo ý muốn.

Điểm khác giữa phái trọng tiền với phái Keynes còn là ở chỗ, phái trọng tiền cho rằng căn bệnh nan giải của CNTB là lạm phát chứ không phải là thất nghiệp. Họ cho rằng thất nghiệp chỉ là một hiện tượng diễn ra bình thường, không có gì phải lo lắng. Hơn nữa họ phê phán việc sử dụng trợ cấp thất nghiệp vì cho rằng làm như vậy sẽ làm mất tính tích cực của tự do cạnh tranh. Họ đưa ra tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên mà xã hội có thể chấp nhận được. Còn lạm phát, theo họ, là căn bệnh nguy hiểm nhất. Tính chất không ổn định của lạm phát như là nhân tố mất ổn định chung ảnh hưởng đến giá cả và sinh ra thất nghiệp. Do vậy, phải có biện pháp chống lạm phát là chính. ở đây họ cho rằng, Nhà nước nên dùng đạo luật để kiểm soát vấn đề lạm phát.

Nhìn chung, các nhà kinh tế học trường phái trọng tiền hiện đại ủng hộ quan điểm truyền thống của chủ nghĩa tự do. Họ ủng hộ chế độ tư hữu, ủng hộ tự do kinh doanh, tự do thị trường, đảm bảo quyền chủ động và trách nhiệm cho chủ xí nghiệp. Họ cho rằng nền kinh tế TBCN thường xuyên ở trạng thái cân bằng động. Đó là một hệ thống tự điều chỉnh hoạt động theo các quy luật kinh tế vốn có của nó. Từ đó họ cho rằng, phải dựa tối đa và thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp vào kinh tế ở một mức độ nhất định.

Hướng khác của chủ nghĩa bảo thủ mới ở Mỹ là chủ nghĩa trọng cung. Tên gọi của phái này chỉ chứng tỏ họ muốn đối lập với lý thuyết trọng cầu của Keynes. Nếu như lý thuyết trọng tiền xuất hiện do yêu cầu cấp bách của việc chống lạm phát trầm trọng, thì lý thuyết trọng cung lại bắt nguồn từ một yếu tố khách quan khác. Nguyên nhân xuất hiện đó trước hết là phản ánh quá trình tìm kiếm con đường giải quyết vấn đề nhịp điệu tăng trưởng và sự trì trệ của năng suất lao động. Các đại biểu của trường phái trọng cung là những nhà chính trị, luật sư, nhà báo, nhà kinh tế, bên ngoài các viện nghiên cứu. Họ phê phán những thiếu sót của hệ thống thuế khoá và chính sách điều chỉnh cầu của trường phái Keynes. Luận điểm quan trọng của họ là: Khối lượng sản xuất là kết quả của chi phí mà những chi phí này mang lại những kích thích kinh tế. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước là xây dựng các điều kiện kinh tế để cho những yếu tố kích thích này xuất hiện. Khi có những kích thích kinh tế sẽ làm tăng chi phí và như vậy sẽ làm tăng sản xuất và tăng cung. Đến lượt nó, cung mới sẽ tạo ra cầu mới. Nhờ vậy nền kinh tế sẽ đạt được trạng thái lý tưởng, ở đó cung sẽ tự tạo ra cầu, khủng hoảng sản xuất thừa được loại trừ.

Những người ủng hộ lý thuyết trọng cung cho rằng, những kích thích chủ quan dường như quyết định hành vi của các chủ doanh nghiệp và các công ty tư nhân. Phương tiện duy nhất để giải quyết những vấn đề của nền kinh tế TBCN hiện đại là xoá bỏ những hạn chế kìm hãm tính chủ động của các chủ doanh nghiệp. Thay thế cho sự điều chỉnh cầu của Keynes dẫn đến tăng thâm hụt ngân sách, tăng lạm phát, những người trọng cung chủ trương hạn chế chi phí Nhà nước, trước hết là giảm thuế.

Những người trọng cung phủ nhận quan điểm của Keynes về việc tiết kiệm như là nguồn gốc sinh ra sản xuất thừa, là nhân tố làm giảm việc làm và quy mô hoạt động kinh tế cũng như giả thuyết của Keynes về kích thích cầu. Theo những người trọng cung vấn đề không phải là ở chỗ kích thích cầu mà là

ở chỗ tăng năng suất. Con đường để tăng sản xuất là kích thích lao động, đầu tư và tiết kiệm. Muốn có bất kỳ một tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nào cũng đòi hỏi phải có tiết kiệm. Chỉ có bộ phân thu nhập quốc dân dành cho tiết kiệm mới có thể đảm bảo cho đầu tư và bù đắp được những thâm hụt của ngân sách.

Những người trọng cung phê phán chính sách thuế của Keynes. Họ cho rằng, thuế suất cao sẽ làm giảm mức độ và qui mô tiết kiệm, còn tăng thuế thu nhập sẽ làm tăng thiên hướng tiêu dùng bộ phận tiền lương của người lao động, do đó cũng làm giảm bộ phận tiết kiệm trong tầng lớp những người lao động. Theo họ đối với mỗi cá nhân tiết kiệm là thu nhập tương lai. Tiết kiệm thu nhập hiện tại càng nhiều thì thu nhập tương lai càng lớn. Biện pháp thuế cao của Keynes sẽ làm giảm tiết kiệm, do đó đầu tư và cuối cùng sẽ làm giảm thu nhập tương lai.

Từ đó những nhà kinh tế học cũng chủ trương giảm thuế. Theo họ giảm thuế sẽ kích thích tích cực hoạt động của con người, tăng sản phẩm, tăng lợi nhuận, từ đó không những không làm giảm, mà còn làm chi thu ngân sách tăng lên.

Tư tưởng tăng cường cơ chế thị trường, giảm sự can thiệp của Nhà nước được phát triển ở Cộng hoà Liên bang Đức trong lý thuyết "kinh tế thị trường xã hội" của phái Phranfuốc do Euckes (1891 - 1950) đứng đầu. Trường phái này coi mục đích của kinh tế thị trường xã hội là ba tự do: tự do thị trường hình thành giá cả và ổn định lưu thông tiền tệ, tự do cạnh tranh, tự do thoát khỏi độc quyền. Tư tưởng cốt lõi của quan điểm này là bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của sở hữu tư nhân.

Các nhà kinh tế trường phái "kinh tế thị trường xã hội" cho rằng nền kinh tế TBCN phải được phát triển theo nguyên tắc tự do cạnh tranh, không có sự can thiệp của độc quyền. Họ coi tự do cạnh tranh là nhân tố cơ bản của kinh tế thị trường xã hội. Cạnh tranh tự do là hình thức hoàn thiện nhất của

quan hệ thị trường đảm bảo cho sự phát triển kinh tế tự điều tiết. Họ nói nhiều về "tự do cá nhân" "tự do thương nghiệp", "kinh tế thị trường tự do", "Tự do kinh tế", "tự do kinh doanh", "xã hội tự do có tổ chức". Họ coi độc quyền là nhân tố phá hoại cạnh tranh, đối lập với bản chất sở hữu tư nhân. ở đây, họ hiểu độc quyền không phải là các liên hiệp độc quyền, mà là sở hữu Nhà nước và quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung.

Những người tự do mới ở Cộng hoà Liên bang Đức coi con bài chủ yếu của "kinh tế thị trường xã hội" là những chủ doanh nghiệp. Họ coi chủ doanh nghiệp cũng là một nhân tố sản xuất. Chức năng của chủ doanh nghiệp là quản lý, điều phối các nhân tố sản xuất khác. Do vậy chủ xí nghiệp cũng mang lại lợi nhuận. Từ đó, họ bổ sung vào lý thuyết ba nhân tố sản xuất của Say (1767 - 1832), nhân tố thứ tư là chủ xí nghiệp. Trên cơ sở đó, họ đề cao nguyên tắc tự do kinh tế và trách nhiệm của chủ xí nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích cho chủ doanh nghiệp.

Các nhà kinh tế học Cộng hoà liên bang Đức ủng hộ cơ chế thị trường, đồng thời cho rằng, kinh tế thị trường không thể hoạt động tự phát. Nó không phải là sản xuất vô chính phủ, mà Nhà nước có một vai trò nhất định để đảm bảo cho sự phát triển hài hoà, tổng hợp giữa chế độ tự do với quy định của xã hội. Họ cho rằng, chức năng cơ bản của chính phủ là tạo ra và đảm bảo tuân thủ sự duy trì tự do và các điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.

Nổi bật là lý thuyết của Repke và Erhard về tổ chức nền kinh tế kiểu "sân bóng đá". Theo lý thuyết này, xã hội là một cái sân bóng đá, các giai cấp, tầng lớp xã hội là những cầu thủ, mỗi người đảm nhận một vị trí nhất định trên sân. Nhà nước giữ vai trò trọng tài, điều khiển trận đấu. Cũng như người trọng tài trên sân bóng đá, Nhà nước không trực tiếp tham gia vào đá bóng, song đóng vai trò đảm bảo cho trận đấu diễn ra theo luật lệ quy định và tránh khỏi những hiểm hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp.

Ngày nay, các nhà kinh tế học CHLB Đức coi Nhà nước như là người canh gác cho CNTB, đảm bảo kết cấu hạ tầng cho sản xuất, đời sống, xây dựng nên các chính sách kinh tế và là một thành viên tham gia vào kinh tế thị trường ở mức độ nhất định.

Mặc dù thừa nhận một cách hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào cơ chế thị trường nhưng lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới đặt ra một thực tế cho các nhà kinh tế học tư sản thấy rằng, điều chỉnh kinh tế trong điều kiện CNTB hiện đại không thể bỏ qua cơ chế thị trường và cũng không thể thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Vì vậy trong những năm gần đây diễn ra sự xích lại giữa các xu hướng cơ bản của kinh tế học tư sản nhằm tìm ra những giải pháp điều chỉnh chung. Nổi bật là sự xích lại giữa phái cổ điển mới và phái Keynes mới, hình thành quan điểm "kinh tế hỗn hợp" của trường phái chính hiện đại nhằm phối hợp giữa kinh doanh tư nhân và Nhà nước.

Mầm mống của quan điểm "kinh tế hỗn hợp" có từ cuối những năm 30 của thế kỷ XIX. Sau thời kỳ chiến tranh nó được hai nhà kinh tế Mỹ là Avin Haxen và John Maurice Clark phát triển tiếp tục. Gần đây nó được trình bày trong lý thuyết "kinh tế hỗn hợp" của P. Samuelson. Nếu các nhà kinh tế học cổ điển và cổ điển mới say sưa với "Bàn tay vô hình", Keynes và những người theo ông say sưa với "Bàn tay Nhà nước" thì P. Samuelson nhận thấy rằng điều chỉnh nền kinh tế hiện đại không thể thiếu được "Bàn tay vô hình" của thị trường và "Bàn tay hữu hình" của chính phủ. Theo ông, hệ thống thị trường không phải là hệ thống hỗn độn vô chính phủ mà là một trật tự kinh tế. Nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác giữa nhân dân và các doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó. Nó

tự xuất hiện ra và cũng như xã hội loài người, nó đang thay đổi. Cơ chế thị trường hoạt động trôi chảy sẽ tạo ra điều kỳ diệu là nâng cao sản lượng của nền kinh tế. Khi cơ chế thị trường bị trục trặc thì khủng hoảng chính trị sẽ xảy ra.

Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng không tránh khỏi những thất bại thị trường. "Bàn tay vô hình" đôi khi có thể dẫn nền kinh tế đi lầm đường lạc lối. Những tệ nạn như khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản, tàn phá tự nhiên và môi trường là những vấn đề bản thân cơ chế thị trường không thể giải quyết nổi. Để đối phó với những khuyết tật đó, các nền kinh tế hiện đại với sự kết hợp giữa thị trường và "bàn tay hữu hình" của chính phủ sẽ đảm bảo cho sự phát triển kinh tế một cách hiệu quả, công bằng và ổn định. Vì vậy trong "Kinh tế học" P.Samuelson viết: "Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu. Điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc không có thị trường thì cũng như người định vỗ tay bằng một bàn tay".

1.1.2. Tầm quan trọng của vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Một câu hỏi đặt ra là nếu thị trường tự do cho phép phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả thì tại sao Nhà nước lại cần can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Tại sao các nước không thực hiện một chính sách hoàn toàn tự do (laisser-fair) để mặc tư nhân kinh doanh? Trả lời câu hỏi này, các nhà kinh tế đã khẳng định mặc dù không thể thay thế thị trường, nhưng Nhà nước có thể hoàn thiện các hoạt động thị trường.

Lịch sử cũng đã chứng minh các nền kinh tế thị trường thành công đều không phát triển một cách tự phát mà không có sự can thiệp và hỗ trợ của

Chính phủ. Một lý do là bàn tay vô hình cần được Chính phủ bảo vệ bởi vì thị trường chỉ vận hành tốt nếu như quyền sở hữu được tôn trọng. Một nông dân sẽ không trồng lúa nếu như anh ta nghĩ rằng mùa màng sẽ bị đánh cắp, một nhà hàng sẽ không phục vụ trừ khi được đảm bảo rằng khách hàng sẽ trả tiền trước khi rời quán. Tất cả chúng ta đều dựa vào công an và tòa án do chính phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những thứ do chúng ta tạo ra.

Kinh tế thị trường đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ngày nay, kinh tế thị trường không chỉ là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến ở các nước phát triển, mà còn lan dần sang các nước đang phát triển, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của thế giới nói chung, của từng quốc gia nói riêng.

Có thể hiểu nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ thị trường quyết định sự phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân được tự do ra quyết định kinh tế. Họ không bị buộc phải làm điều mà họ cho là không có lợi. Họ được tự do tự lựa chọn việc làm, tham gia công đoàn và quyết định ông chủ cho mình; tự do quyết định chi bao nhiêu thu nhập cho tiêu dùng hiện tại và chi vào hàng hoá và dịch vụ nào; dành bao nhiêu để tích luỹ cho tương lai và phân bổ tài sản hiện có vào các danh mục đầu tư khác nhau. Các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, lựa chọn qui mô, công nghệ sản xuất và thuê các yếu tố đầu vào; tự do lựa chọn địa điểm và phương thức phân phối sản phẩm tạo ra... Hầu hết các quyết định đó không xuất phát từ động cơ đóng góp cho phúc lợi chung của toàn xã hội mà xuất phát từ lợi ích riêng. Giá cả đóng vai trò là công cụ phát tín hiệu để liên kết những quyết định phân tán đó và làm cho cả hệ thống ăn khớp với nhau.

Cạnh tranh là nguyên tắc có tính nền tảng của kinh tế thị trường, nó đòi

hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao hiệu quả mới có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung ứng để tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh chính là động lực cho phép các nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả nhất. Những doanh nghiệp nào yếu kém, thua lỗ sẽ bị phá sản, các nguồn lực sẽ được chuyển sang các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn. Cạnh tranh và phá sản cũng giới hạn những sai lầm trong kinh doanh. Các doanh nghiệp sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm thiết thực từ các vụ phá sản để kinh doanh tốt hơn. Phá sản là sự sàng lọc cần thiết để đào thải những doanh nghiệp yếu kém, làm trong sạch và lành mạnh môi trường kinh doanh. Nếu chấp nhận cạnh tranh thì doanh nghiệp thuộc bất kỳ hình thức sở hữu nào cũng sẽ kinh doanh có hiệu quả hơn so với trong điều kiện các doanh nghiệp đó có sức mạnh thị trường.

Giống như một bàn tay vô hình (thuật ngữ nổi tiếng của Adam Smith), hệ thống giá cả liên kết hành động của các cá nhân ra quyết định riêng rẽ chỉ tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân họ. Nhưng trong khi đi tìm lợi ích riêng một cách vị kỷ, thì chính bàn tay vô hình của thị trường sẽ dẫn dắt họ tạo nên một kết quả nằm ngoài dự kiến là đem lại lợi ích cho xã hội tốt hơn ngay cả khi họ chủ động định làm như vậy. Chính vì vậy, hệ thống thị trường tỏ ra ưu việt hơn hẳn hệ thống kế hoạch hoá tập trung: nó phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả theo nghĩa cho phép tối đa hoá phúc lợi của toàn xã hội.

Những đặc điểm chính làm cho kinh tế thị trường tỏ ra ưu việt hơn hệ thống kế hoạch hoá tập trung trong việc phân bổ các nguồn lực bao gồm:

Sự liên kết tự động và linh hoạt

Những người ủng hộ kinh tế thị trường cho rằng so với mô hình kế hoạch hoá tập trung, hệ thống thị trường dựa trên các quyết định phi tập trung, nên linh hoạt hơn, điều chỉnh nhanh hơn và dễ thích ứng hơn trong một môi trường thường xuyên thay đổi.

Khi điều kiện kinh tế thay đổi, giá cả trong nền kinh tế thị trường có thể thay đổi nhanh chóng và những người ra quyết định phi tập trung có thể phản ứng nhanh nhạy theo tín hiệu giá cả. Ngược lại, việc qui định hạn ngạch, phân bổ và phân phối theo kế hoạch của Chính phủ sẽ rất khó điều chỉnh và kết quả là tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt thường xuyên xảy ra trước khi Chính phủ có đủ thời gian để điều chỉnh. Một lợi thế to lớn của thị trường là nó phát tín hiệu một cách tự động khi điều kiện thay đổi. Điều này hoàn toàn trái ngược với hệ thống kế hoạch hoá tập trung, trong đó Chính phủ phải dự đoán và ra quyết định điều chỉnh. Hàng năm, Chính phủ phải đưa ra quyết định điều chỉnh đối với vô số các biến động trên thị trường và điều đó khiến cho Chính phủ phải mất nhiều công sức dự đoán và lập kế hoạch cho tất cả những điều chỉnh đó và thường bị sai lệch.

Thúc đẩy tiến bộ và tăng trưởng

Công nghệ, sở thích và các nguồn lực liên tục thay đổi theo thời gian ở mọi nền kinh tế. Sản phẩm mới và kỹ thuật mới được phát minh để thích ứng với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng và khai thác những cơ hội do công nghệ mới tạo ra.

Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân chấp nhận rủi ro hy sinh thời gian và tiền bạc nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Nhiều khi họ thành công, nhưng cũng có khi họ thất bại. Sản phẩm và quá trình sản xuất mới xuất hiện rồi có thể lại bị thay thế bởi các sản phẩm và quá trình ưu việt hơn. Một số trong các sản phẩm mới này có thể trở thành mẫu mốt, trong khi một số sản phẩm khác không hề gây ấn tượng. Hệ thống thị trường hoạt động thông qua việc thử nghiệm, lựa chọn và đào thải để phân loại hàng hoá và phân bổ nguồn lực vào những thứ được coi là ưu việt nhất: hàng hoá được sản xuất bởi những người có chi phí thấp nhất và được bán cho những người trả giá cao nhất.

Điều đó trái ngược với trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nơi mà

các nhà lập kế hoạch phải dự đoán xem tiến bộ công nghệ hoặc sản phẩm có nhu cầu cao sẽ xuất hiện ở lĩnh vực nào. Tăng trưởng theo kế hoạch có thể mang lại những điều kỳ diệu do tập trung được nguồn lực để thực hiện đường lối đã chọn, nhưng có thể là quá rủi ro khi các nhà lập kế hoạch dự đoán sai và do đó phân bổ nguồn lực vào các hoạt động có có lợi cho xã hội.

Phi tập trung hoá quyền lực

Một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường là phi tập trung hoá quyền lực và con người ít bị áp đặt hơn do cơ chế vận hành là hướng đến lợi ích riêng và tự do ra quyết định. Cạnh tranh chính là động lực phát triển quan trọng nhất trong một nền kinh tế thị trường. Do áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tự hoàn thiện mình để có thể sản xuất hàng hoá với chất lượng cao nhất, giá thành rẻ nhất và phục vụ khách hàng tốt nhất thì mới thu được lợi nhuận, để duy trì hoạt động và mở rộng thị phần của mình trên thị trường.

Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có khuyết tật, cũng giống như tấm huân chương bao giờ cũng có mặt trái của nó. Có thể nêu lên những khuyết tật này như sau:

Thứ nhất, tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp.

Khủng hoảng kinh tế là tình trạng sản xuất thừa, sản xuất tăng lên lớn hơn tiêu dùng còn tiêu dùng không đủ. Vì vậy hàng hoá không bán được, doanh nghiệp không có thu nhập để bù đắp chi phí sản xuất nhằm tiếp tục quá trình tái sản xuất. Vì vậy xí nghiệp phải đóng cửa. Tình trạng đó làm cho xí nghiệp không có lợi nhuận, người lao động không có việc làm, bị thất nghiệp. Điều đó làm tăng mâu thuẫn kinh tế - xã hội trong nền kinh tế.

Khủng hoảng kinh tế diễn ra theo chu kỳ. Các nhà kinh tế học chia chu kỳ khủng hoảng thành 4 giai đoạn là: Khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, hưng thịnh. Khủng hoảng là giai đoạn đầu của chu kỳ. Lúc này hàng hoá không bán

được, xí nghiệp đóng cửa, công nhân mất việc làm.

Tiêu điều là giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn này tình trạng sản xuất bị đình đốn do xí nghiệp đóng cửa hàng loạt, công nhân thất nghiệp trầm trọng, hàng hoá ế thừa chồng chất làm cho lợi nhuận giảm sút nghiêm trọng.

Do có những tác động về đầu tư đổi mới thiết bị trong thời kỳ tiêu điều đặc biệt là từ phía Nhà nước mà dần dần thoát ra khỏi tiêu điều để tiếp đến giai đoạn phục hồi.

Giai đoạn phục hồi là giai đoạn sản xuất dần dần được khôi phục, hàng hoá bán được, doanh nghiệp dần dần có lợi nhuận khiến họ mở mang doanh nghiệp. Nhờ đó công nhân được thu hút vào làm việc có được thu nhập. Nền kinh tế dần dần tăng tốc.

Phục hồi vượt quá điểm phát triển cao nhất của chu kỳ trước được gọi là hưng thịnh. Trong giai đoạn này thị trường mở rộng, hàng hoá bán chạy mang lại lợi nhuận nhiều cho doanh nghiệp khiến qui mô và tốc độ mở rộng sản xuất tăng nhanh. Công nhân có việc làm nhiều nên tiền lương càng tăng cao.

Khi sản xuất tăng lên quá nhanh, cung vượt quá cầu nền kinh tế lại lâm vào tình trạng khủng hoảng và bắt đầu vượt chu kỳ kinh tế mới.

Ngày nay các nhà kinh tế học đều thừa nhận khủng hoảng và gắn với nó là thất nghiệp là tình trạng có tính qui luật của nền kinh tế thị trường. Người ta không thể xoá bỏ nó nhưng có thể điều chỉnh nó đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế.

Thứ hai, tình trạng phân hoá, bất bình đẳng.

Dù nền kinh tế thị trường có hoạt động tốt như thế nào thì bản thân nó cũng tạo ra sự phân hoá bất bình đẳng. Nguyên nhân của tình trạng này là ở chỗ trong quá trình sản xuất kinh doanh, do mục tiêu chạy theo lợi nhuận, giảm giá trị hàng hoá, có người tài giỏi, gặp may, phát tài làm giàu. Trong khi đó nhiều người kém cỏi, không gặp may bị lỗ vốn phá sản. Điều đó dẫn đến

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/04/2022