ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Mai Ngọc Cường
Hà Nội - 2007
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN 3
3.1. MỤC ĐÍCH 3
3.2. NHIỆM VỤ 3
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
5.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
5.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
6. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN 4
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 4
CHƯƠNG1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 6
1.1. VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT VÀ TẦM QUAN TRỌNG 6
1.1.1. KHÁI QUÁT CÁC TƯ TƯỞNG VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 6
1.1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 22
1.2. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ KINH TẾ NHÀ NƯỚC 29
1.2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 29
1.2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 35
1.3. KINH NGHIỆM VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC 42
CHƯƠNG 2 VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 48
2.1 THỰC TRẠNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 48
2.1.1. VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG LUẬT PHÁP CHO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC
TA 48
2.1.2. VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐỔI MỚI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ, CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 52
2.1.3. VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ ĐỂ ĐIỀU TIẾT VÀ THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG 55
2.1.4 VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT THU NHẬP, ĐẢM BẢO BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI 57
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ CỦA VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .60
2.2.1 NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU 60
2.2.2. NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU 65
2.2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 72
2.3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM
TỚI 79
2.3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA NHỮNG NĂM TỚI 80
2.3.1.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG LUẬT PHÁP 80
2.3.1.2. SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ CÔNG CỘNG. XỬ LÝ TÌNH TRẠNG ĐỘC
QUYỀN DOANH NGHIỆP 82
2.3.1.3. HOÀN THIỆN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, THUẾ, LÃI SUẤT ĐỂ ĐIỀU TIẾT KINH TẾ THEO NGUYÊN TẮC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 84
2.3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VAI TRÒ KINH TẾ
CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA NHỮNG NĂM TỚI 85
2.3.2.1. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY, NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 85
2.3.2.2 ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỐC GIA PHÙ HỢP VỚI NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XA HỘI CHỦ NGHĨA 88
2.3.2.3 ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙ HỢP VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XA HỘI CHỦ NGHĨA 92
KẾT LUẬN 95
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI (12 - 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra những bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong đường lối đổi mới ấy, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường. Tới Đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VIII, Đảng ta lại khẳng định chủ trương "Tiếp tục xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế mới, kiên trì quá trình chuyển sang cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước".
Thực hiện chủ trương mà Đảng đã vạch ra, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng loạt các chính sách, các văn bản pháp luật để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế, mà mô hình tổng quát của nền kinh tế ấy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Nhà nước đã có những chính sách và thể chế hoá bằng hàng loạt bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật khác nhằm hướng vào việc đảm bảo quyền tài sản; đảm bảo quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh; đảm bảo cho giá cả chủ yếu do thị trường định đoạt; đảm bảo lấy các tín hiệu thị trường làm căn cứ quan trọng để phân bố các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh; đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; đảm bảo khuyến khích các nhà kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận hợp pháp ...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trong nền kinh tế do đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế đưa lại như tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới luôn có xu hướng gia tăng; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn, việc làm và đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện..., thì chính từ quản lý nhà nước trong nền kinh tế nước ta đang nổi lên không ít những vấn đề bức xúc cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ như cần xác định một cách có căn cứ khoa học về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, các phương pháp, công cụ quản lý nhà nước về kinh tế trong mối quan hệ tồn tại khách quan giữa Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước; làm thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; ... nhằm tháo gỡ kịp thời, đồng bộ tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng theo những quy luật vốn có của nó và đáp ứng các mục tiêu đã đề ra. Từ nhận thức đó, tác giả lựa chọn chủ đề “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, bằng các cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã giả quyết được nhiều vấn đề, như:
- GS.TS. Mai Ngọc Cường: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia - 2001)
- Tập thể tác giả: GS. PTS. Vũ Đình Bách, GS.TS. Ngô Đình Giao: Đổi mới và thực hiện đồng bộ các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế (NXB Chính trị Quốc gia - HN 1997)
- Nguyễn Danh Nghĩa: Vai trò của pháp luật trong việc ổn định thị trường bất động sản- nhu cầu, khả năng và một số kiến nghị ban đầu - Kỷ yếu hội thảo khoa học, thị trường nhà đất ở Hà Nội, thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước. Tháng 4 - 2002
- GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ (chủ nhiệm đề tài): Quản lý Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng XCHN ở Việt Nam - chương trình khoa học cấp Nhà nước KX.01
Các công trình nghiên cứu trên với những góc độ khác nhau đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp cận vai trò kinh tế của Nhà nước với tư cách là một yêu cầu để khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường nảy sinh trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước và thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt nam hiện nay, đề tài đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước trong việc khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở khái quát lịch sử các tư tưởng kinh tế và kinh nghiệm một số nước.
- Phân tích thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực: luật pháp, quản lý và phát triển các loại hình doanh nghiệp, sử dụng các công cụ tài chính, tín dụng, thuế, phân phối thu nhập, an sinh xã hội để điều tiết thu nhập và ổn định kinh tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta, các quan điểm hiện đại về vai trò kinh tế của Nhà nước, đồng thời kế thừa một cách có chọn lọc ý tưởng của các tác giả đi trước về vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa logic với lịch sử, phân tích, so sánh và tổng hợp.
- Sử dụng có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã công bố.
- Sử dụng các tài liệu, số liệu thống kê.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nước ở nước ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế về vai trò kinh tế của Nhà nước.
- Khuyến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 2 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò kinh tế của Nhà nư- ớc trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường: Khái quát lý thuyết và tầm quan trọng
1.1.1. Khái quát các tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Có thể nói tư tưởng về vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là một trong hai tư tưởng quan trọng bậc nhất trong lý thuyết kinh tế: tư tưởng giá trị và tư tưởng vai trò Nhà nước. Nếu như các nhà kinh tế học đã có sự tranh luận quyết liệt về tư tưởng giá trị, thì cuộc tranh luận trong lĩnh vực vai trò Nhà nước không kém phần gay gắt. Nhìn chung, trong lịch sử có hai quan điểm. Nhà nước có can thiệp vào kinh tế hay không? và can thiệp thì ở mức độ như thế nào? những người không ủng hộ can thiệp của Nhà nước vào kinh tế được gọi là những người theo phái tự do kinh tế mà tiêu biểu là A.Smith (1723-1790). Trong tác phẩm "Nghiên cứu về nguyên nhân và bản chất sự giàu có của dân tộc" Ông cho rằng, hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do "Bàn tay vô hình" hay qui luật kinh tế khách quan chi phối. Theo nguyên tắc này hoạt động kinh tế phải được tiến hành một cách tự do, do bộ máy cung - cầu và biến động của giá cả trên thị trường quyết định. Sản xuất cái gì? cho ai? như thế nào? Tất cả được giải quyết thông qua thị trường. Nhà nước không can thiệp vào thị trường và hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. Theo các nhà kinh tế học tư sản cổ điển, Nhà nước là cần thiết để bảo vệ các quyền của chủ sở hữu tư nhân, chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, Ông cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm
vụ kinh tế nhất định, khi những nhiệm vụ này vượt ra khỏi phạm vi xí nghiệp như các công việc đắp đường, đào sông ...
Không chỉ trường phái cổ điển, mà các nhà kinh tế học trường phái cổ điển mới (cuối thế kỷ XIX) cũng ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế. Họ cho rằng hoạt động tự do của doanh nhân theo sự biến động tự phát của cung - cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường chi phối là điều kiện cơ bản cho sự phát triển và cân đối tình hình thị trường. Trên cơ sở này Leon Walras (1834-1910) đã đưa ra lý thuyết "thăng bằng tổng quát giữa các thị trường".
Các nhà kinh tế học trường phái cổ điển và cổ điển mới đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của sản xuất, chức năng của Nhà nước ngày càng mở rộng, do vậy vai trò của Nhà nước sẽ tăng lên. Đặc biệt trước những đòi hỏi thực tế trong lĩnh vực ngoại thương, sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền và những vấn đề tái sản xuất sức lao động thì Nhà nước tư sản càng phải tăng cường can thiệp vào kinh tế. Tuy nhiên, họ vẫn cho rằng, tự do kinh tế là sức mạnh hoạt động của nền kinh tế TBCN. Qui luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy sự hoạt động của các qui luật kinh tế. Họ có niềm tin vững chắc vào cơ chế thị trường và tự điều tiết hoạt động theo cung - cầu và giá cả. Theo sự điều tiết tự động của "Bàn tay vô hình" mà quá trình tái sản xuất bảo đảm được những tỉ lệ cân đối và duy trì được sự phát triển bình thường.
Song cuộc khủng hoảng kinh tế của CNTB bắt đầu từ 1825 và trở nên thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỷ XX đã chứng tỏ "bàn tay vô hình" không thể bảo đảm cho nền kinh tế TBCN phát triển bình thường. Hơn nữa xu hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học tư sản thấy rằng phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. Từ đó lý thuyết "Chủ nghĩa tư bản được điều tiết" xuất hiện. Người sáng lập ra thuyết này là John Meynard Keynes (1884 -
1946), nhà kinh tế học, nhà hoạt động xã hội và thực tiễn trong ngành ngân hàng nước Anh.
Nếu như trường phái cổ điển và cổ điển mới coi Nhà nước tư bản chỉ là người canh gác bảo vệ tài sản cho CNTB, thì Keynes đánh giá vai trò của Nhà nước ở vị trí hoàn toàn khác. Trong tác phẩm "Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" (1936) ông đưa ra kết luận quan trọng là, cơ chế thị trường không thể bảo đảm cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất, mọi tệ nạn của CNTB như khủng hoảng, thất nghiệp bắt nguồn từ sự không can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Vì vậy để bảo đảm cho CNTB hoạt động bình thường, tránh được khủng hoảng và thất nghiệp thì Nhà nước tư sản phải đưa ra những chính sách điều chỉnh kinh tế, phải can thiệp vào quá trình sản xuất.
Trong lịch sử kinh tế học tư sản, Keynes không phải là người đầu tiên đưa ra tư tưởng Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
Thời kỳ thế kỷ XV - XVII, các kinh tế gia trường phái trọng thương cũng đã chủ trương là Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế. Tuy nhiên do các trình độ phát triển kinh tế khác nhau nên phạm vi, phương pháp thực hiện có khác nhau. Trong thời kỳ trọng thương, CNTB đang ở giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ, còn non yếu, cần thiết phải có sự hỗ trợ, có "bà đỡ" để cho nó ra đời. Do vậy trường phái trọng thương chủ trương Nhà nước phải can thiệp vào hoạt động ngoại thương thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển. Ở những năm 30 của thế kỷ XX vấn đề can thiệp của Nhà nước tư sản vào kinh tế được đặt ra trong điều kiện hoàn toàn khác. Lúc này CNTB đã phát triển mạnh đến mức sản xuất thừa, "khủng hoảng". Do vậy đòi hỏi Nhà nước tư sản phải có phương pháp mới can thiệp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất TBCN. Người ta coi J.M.Keynes là công
trình sư của CNTB độc quyền Nhà nước, không phải chỉ vì ông chứng minh cho sự cần thiết can thiệp của Nhà nước tư sản vào kinh tế, mà còn là chỗ ông chỉ rõ công cụ chủ yếu cho sự can thiệp này. Đó là công cụ kinh tế vĩ mô. Ông đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với ba loại đại lượng.
Một là, những đại lượng xuất phát. Nó được coi là không thay đổi, hay thay đổi rất chậm như các nguồn vật chất cho sản xuất, lực lượng lao động, trình độ kỹ thuật, trình độ chuyên môn của người lao động ...
Hai là, những đại lượng khả biến độc lập, như "khuynh hướng tiêu dùng", "khuynh hướng tiết kiệm" "khuynh hướng đầu tư".
Ba là, những đại lượng khả biến phụ thuộc, phản ánh tình trạng nền kinh tế TBCN như sản xuất quốc gia, thu nhập quốc gia. Chúng biến đổi dưới sự tác động của đại lượng khả biến độc lập.
Giữa các đại lượng khả biến độc lập và đại lượng khả biến phụ thuộc có mối quan hệ với nhau. Nếu ký hiệu Q là giá trị sản lượng hiện tại, R là thu nhập, C là tiêu dùng, I là đầu tư, S là tiết kiệm thì:
Q = C + I
R = C + S
Vì sản xuất bằng thu nhập (điều này có nguồn gốc từ "tín điều" của A. Smith: giá trị bằng tổng thu nhập) nên I = S tức là đầu tư bằng tiết kiệm. Trong lý thuyết kinh tế hiện đại, đầu tư và tiết kiệm là hai đại lượng được quan tâm đặc biệt. Nếu toàn bộ phần tiết kiệm được đem ra đầu tư hết thì cũng có nghĩa toàn bộ thu nhập quốc gia được sử dụng cho tiêu dùng. Không còn tiết kiệm sẽ không còn phẩn sản phẩm dư thừa, không có khủng hoảng kinh tế. Ngược lại, nếu tiết kiệm càng lớn, một bộ phận thu nhập không được sử dụng cho tiêu dùng mà đi vào để dành. Trong trường hợp đó sẽ có một bộ
phận sản phẩm sản xuất ra, không thực hiện được giá trị, xuất hiện khủng hoảng sản xuất thừa. Như vậy khủng hoảng sản xuất thừa là do "tiêu dùng không đầy đủ".
Thật ra trong lịch sử, không phải J.M.Keynes là người đầu tiên giải thích nguyên nhân khủng hoảng sản xuất thừa là do tiêu dùng không đầy đủ. Lý thuyết này đã được K.Mark phân tích trong bộ "Tư bản". Trước đó là R.T Malthus (1766 - 1834), một nhà kinh tế tư sản và S. Sismondi (1773 - 1842), nhà kinh tế học tiểu tư sản đã phát hiện ra. Cái mới của J.M. Keynes là ở chỗ, ông kết hợp lý thuyết "giới hạn" của trường phái cổ điển mới với lý thuyết tiêu dùng không đầy đủ để phân tích nguyên nhân khủng hoảng. Ông cho rằng, trong nền kinh tế cùng với việc tăng lên của sản xuất thì thu nhập tăng lên và do đó tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng tiêu dùng tăng chậm hơn so với tăng thu nhập vì có khuynh hướng "tiêu dùng giới hạn". Theo khuynh hướng này từ trong phần thu nhập tăng thêm bộ phận dành cho tiêu dùng ít hơn, còn dành cho tiết kiệm nhiều hơn. Theo ông đây là qui luật tâm lý cơ bản của con người. Trong các xã hội phát triển, khi người ta có mức thu nhập và tiêu dùng cao trong các xã hội kém phát triển. Do qui luật này mà cầu tiêu dùng và "cầu có hiệu quả" giảm xuống. Hậu quả của nó như đã biết, là khủng hoảng sản xuất thừa.
Bảng 1: Phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm
Lần | Thu nhập R | Tiêu dùng C | Tiết kiệm S | |||
Tổng số R | Tăng thêm dR | Tổng số C | Tăng thêm dC | Tổng số S | Tăng thêm dS | |
1. | 40 | 0 | 40 | 0 | 0 | 0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 2
- Đặc Điểm Của Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ
- Vai Trò Nhà Nước Trong Việc Xây Dựng Hệ Thống Luật Pháp Cho Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Nước Ta
- Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 5
- Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 6
- Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 58 trang tài liệu này.
2. | 60 | 20 | 60 | 20 | 0 | 0 |
3. | 100 | 40 | 80 | 20 | 20 | 20 |
4. | 110 | 10 | 87 | 23 | 20 | 3 |
5. | 120 | 10 | 93 | 4 | 27 | 4 |
6. | 130 | 10 | 98 | 5 | 32 | 5 |
7. | 140 | 10 | 102 | 4 | 38 | 6 |
S
102
93
80
60
60
140
Hình 1: Thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Để khắc phục tình trạng trên đây Keynes chỉ ra là Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, mà các biện pháp chủ yếu là: Nhà nước phải kích thích cầu, duy trì cầu đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn. Từ đó theo "nguyên lý số nhân" mà kích thích tiêu dùng của xã hội, nâng cao cầu có hiệu quả. Nhà
nước sử dụng tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều chỉnh kinh tế và chống chu kỳ. Thông qua đó mà củng cố lòng tin và lạc quan cho doanh nhân trong các cuộc đầu tư, nâng cao hiệu quả "giới hạn" của tư bản. Đồng thời đảm bảo bù đắp những thiếu hụt của ngân sách Nhà nước do tăng chi phí để kích thích đầu tư bằng cách in thêm tiền giấy, thực hiện "lạm phát có mức độ"; xây dựng hệ thống thuế khoá, công trái của Nhà nước để điều tiết một phần thu nhập dành cho tiết kiệm, kích thích doanh nhân tích cực hoạt động. Keynes chủ trương khuyến khích mở rộng mọi hình thức đầu tư để tăng cầu và việc làm, kể cả đầu tư sản xuất vũ khí chiến tranh; khuyến khích tăng mọi tiêu dùng cá nhân của người lao động và nhà tư bản.
Tóm lại, tư tưởng trung tâm của lý thuyết điều chỉnh kinh tế mà J.M Keynes đưa ra là Nhà nước phải có các biện pháp để tăng "cầu có hiệu quả" kích thích tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân, kích thích đầu tư tư bản, từ đó đảm bảo việc làm, tăng thu nhập, chống khủng hoảng và thất nghiệp.
Lý thuyết điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Keynes được các nhà kinh tế tư sản đại diện cho mọi xu hướng ở các nước tư bản phát triển rất hoan nghênh và sử dụng làm cơ sở cho chiến lược điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Ở cộng hoà liên bang Đức nó được sử dụng làm cơ sở tư tưởng cho kiểu điều chỉnh kinh tế phát xít. Ở Pháp nó được sử dụng làm cơ sở cho lý thuyết "đơn vị chỉ huy" và kế hoạch hoá". Đặc biệt ở Mỹ, nó được sử dụng rộng rãi nhất. Các nhà kinh tế học Mỹ đã bổ sung cho lý thuyết Keynes nhiều điều mới.
Trước hết, họ đưa ra lý thuyết "ngừng trệ". Theo thuyết này, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế không phải chỉ là do tiêu dùng không đầy đủ mà còn do những động lực bên ngoài, làm cho nền kinh tế bị yếu đi. Cụ thể là do dân số tăng chậm, không còn đất đai tự do, tiến bộ kỹ thuật tăng chậm.
Thứ hai, những người thuộc trường phái Keynes ở Mỹ ủng hộ việc Nhà nước sử dụng các phương tiện như đơn đặt hàng lớn của Nhà nước, hệ thống