Những chuẩn mực này, một lần nữa lại được khẳng định nguyên giá trị tại Thông tư 07/2014/TT- BYT ngày 25 tháng 02 năm 2014 của Bộ Y tế. Hơn nữa, tại thông tư này, ngoài những hướng dẫn chi tiết 12 điều y đức còn đưa thêm những quy tắc ứng xử cụ thể cho từng đối tượng, môi trường và loại quan hệ khi hoạt động trong lĩnh vực y tế với tiêu chuẩn riêng phù hợp. Đơn cử như quy định về những ứng xử phải làm và không được làm của lãnh đạo, quản lý cơ sở y tế tại Điều 7 với cụ thể 7 điều người lãnh đạo, quản lý phải làm và 4 điều họ không được làm trong hoạt động của mình.
Ngoài ra, tại một số luật có liên quan khác, những quy tắc, chuẩn mực ứng xử thể hiện đạo đức người thầy thuốc cũng được thể hiện. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 được ban hành với những nguyên tắc phần nào phản ánh về y đức như:
Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép; Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học; Không nhằm mục đích thương mại; Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác [52, Điều 4].
Bên cạnh những tiêu chuẩn, quy tắc hành vi tạo lập nên đạo đức người thầy thuốc pháp luật cũng có những quy định cụ thể quy định về những hành vi bị cấm mà người thầy thuốc không được làm nhằm ngăn chặn những vi phạm về đạo đức nghề nghiệp có thể xâm phạm đến lợi ích chung hay lợi ích của người bệnh, đồng nghiệp, tất cả nhằm mục đích bảo vệ các quan hệ xã hội trong các quan hệ có liên quan đến người thầy thuốc.
Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 tại Điều 6 quy định 14 hành vi bị nghiêm cấm của nhân viên y tế khi thực hiện khám chữa bệnh như cấm từ chối hoặc cố ý chậm cấp cứu người bệnh; Cấm hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh vượt quá phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động, trừ trường hợp cấp cứu; Cấm áp dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật y tế chưa được công nhận, sử dụng thuốc chưa
được phép lưu hành trong khám bệnh, chữa bệnh; Cấm đưa, nhận, môi giới hối lộ trong khám bệnh, chữa bệnh...
Luật Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 cũng có những quy định cấm một số hành vi như cấm ép buộc người khác phải cho mô, bộ phận cơ thể người hoặc lấy mô, bộ phận cơ thể của người không tự nguyện hiến; Cấm ghép mô, bộ phận cơ thể của người bị nhiễm bệnh theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định; Cấm tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật; Cấm lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch kết quả xác định chết não,... [52, Điều 11].
Có thể thấy, những quy định này đều hướng tới ngăn cấm, ngăn chặn những hành vi nguy hiểm có thể được thực hiện do sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc gây ra, tuy nhiên, những hành vi được quy định này không chỉ mang ý nghĩa về khía cạnh đạo đức nghề nghiệp mà còn là các quy định thể hiện vai trò cần thiết của pháp luật để bảo vệ những quan hệ trong trật tự xã hội yêu cầu pháp luật phải điều chỉnh.
1.3.2. Pháp luật là cơ sở để các đơn vị y tế, các cơ quan chủ quản đánh giá về đạo đức thầy thuốc
Trong bất kì lĩnh vực gì, những tiêu chí đánh giá, xếp loại luôn luôn là cần thiết. Nó không chỉ mang ý nghĩa động viên, khích lệ những người có biểu hiện, thành tích tốt mà nó còn góp phần hình thành nên những tiêu chuẩn cụ thể cho những biểu hiện, ứng xử và hành vi nên làm, không nên làm hay bị ngăn cấm trong một môi trường cụ thể. Từ đó làm cơ sở cho việc thanh kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm.
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Đạo Đức Và Pháp Luật
- Pháp Luật Với Vai Trò Xây Dựng Đạo Đức Nghề Nghiệp
- Vai Trò Của Pháp Luật Đối Với Việc Xây Dựng Đạo Đức Thầy Thuốc
- Tác Động Tích Cực Của Pháp Luật Đối Với Việc Xây Dựng Đạo Đức Thầy Thuốc Pháp Luật, Với Vai Trò Của Mình Đã Có Tác Động Tích Cực Đến Việc
- Một Số Hành Vi Vi Phạm Đạo Đức Nghề Nghiệp Được Phản Ánh [31, Tr.68]
- Tác Động Tiêu Cực Và Những Hạn Chế Của Pháp Luật Đối Với Việc Xây Dựng Đạo Đức Thầy Thuốc
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Pháp luật với vai trò làm cơ sở và công cụ để đánh giá một vấn đề, đó là việc sử dụng các quy định của pháp luật như một tiêu chuẩn đúng đắn, phổ biến, được thừa nhận bởi toàn xã hội để dựa vào đó mà đánh giá, nhận xét một hành vi là đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp, đáng khuyến khích hay bài trừ, để từ đó xác định những phương án, hướng xử lí phù hợp. Cụ thể:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm của pháp luật là những quy tắc xử sự chung, vì lẽ đó mà việc nó được thừa nhận rộng rãi, trở thành quy chuẩn chung cho xã hội
với tính phổ biến của mình thì pháp luật được coi như là một công cụ đương nhiên và hữu hiệu để đánh giá hành vi, hiện tượng theo chuẩn mực chung được thừa nhận, tránh được những tranh cãi, bất đồng về quan điểm.
Thứ hai, về tính đúng đắn, pháp luật được nghiên cứu, soạn thảo và ban hành bởi cơ quan quyền lực nhà nước theo các quy trình chặt chẽ và nhất định bởi những người có chuyên môn và có sự đầu tư kỹ lưỡng, xem xét và cân nhắc, cân đối từ nhiều góc độ, vị trí trong khâu ban hành. Chính vì vậy, trong phần lớn các trường hợp thì những quy định của pháp luật là tương đối đúng đắn, phù hợp với thực trạng và điều kiện hiện tại của xã hội và lĩnh vực được điều chỉnh. Như vậy, việc sử dụng pháp luật những quy chuẩn có sẵn có tính đúng đắn, hợp lí cao để đánh giá hành vi là hoàn toàn phù hợp.
Thứ ba, về giá trị pháp lý, việc đánh giá và đưa ra các quyết định, phán quyết dựa trên cơ sở pháp luật sẽ mang đến sự thừa nhận rộng rãi và buộc phải chấp nhận của những chủ thể liên quan bởi pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Trong lĩnh vực y tế, việc sử dụng pháp luật như một cơ sở để cho các đơn vị y tế, cơ quan chủ quản dựa vào để đánh giá về y đức là vô cùng cần thiết, bởi lẽ chính bản thân các chủ thể này luôn phải ý thức được rằng chất lượng y đức, quản lý vấn đề y đức và trách nhiệm của họ đối với vấn đề y đức trong cơ sở, đơn vị mình là vô cùng quan trọng, là trách nhiệm trước trách nhiệm. Và vì vậy, nhìn nhận, đánh giá y đức dưới góc độ của pháp luật, bằng pháp luật khiến cho những người có thẩm quyền, trách nhiệm này có ý thức rõ ràng hơn về vai trò của nó và thực hiện nó một cách nghiêm túc hơn.
Và hơn hết, trong một lĩnh vực quan trọng, chuyên sâu và phức tạp như ngành y thì việc thể chế những tiêu chí, quy chuẩn của đạo đức người thầy thuốc vào trong pháp luật thành văn, ghi nhận phổ biến nó và để nó có giá trị pháp lý là một đòi hỏi thiết yếu làm tăng tính thuyết phục cho những quyết định khen thưởng, xử phạt, đánh giá của những cơ sở y tế, cơ quan chủ quản này.
Với quan điểm đó, Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã có quy định về xác định
người hành nghề có sai sót hoặc không có sai sót chuyên môn kỹ thuật tại Điều 73 luật này như sau:
1. Người hành nghề có sai sót chuyên môn kỹ thuật khi được hội đồng chuyên môn quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này xác định đã có một trong các hành vi sau đây:
a) Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh;
b) Vi phạm các quy định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp;
c) Xâm phạm quyền của người bệnh...
Ngoài ra, việc pháp luật hóa những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp thành những văn bản có giá trị pháp lý như Thông tư 07/2014/TT-BYT với những quy tắc ứng xử cụ thể cũng là một trong những căn cứ quan trọng để cho những đơn vị y tế, cơ quan hữu quan có được một tiêu chuẩn, thước đo rõ ràng và cụ thể trong việc đánh giá về y đức của người thầy thuốc, tránh việc mơ hồ, đánh giá sai lệch hay có sự bất công bằng giữa các địa phương, đơn vị khác nhau với cùng một hành vi đạo đức nghề nghiệp bị vi phạm.
1.3.3. Pháp luật là công cụ để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đạo đức thầy thuốc
Bên cạnh việc tạo lập quy tắc hành vi, trở thành cơ sở cho việc đánh giá hành vi thì việc đóng vai trò là công cụ để xử lý vi phạm cũng là một mảng không kém phần quan trọng trong vai trò của pháp luật.
Pháp luật sẽ không thể phát huy được hết vai trò của mình khi mà nó chỉ đưa ra những nguyên tắc, quy chuẩn cho người ta tuân theo, để người ta soi vào đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình nhưng lại không có một ràng buộc gì để bảo đảm việc thực hiện những nguyên tắc, quy chuẩn đó.
Trong khi đạo đức được bảo đảm thực hiện bằng lương tâm của mỗi người thì pháp luật lại được bảo đảm thực hiện bởi cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước với những chế tài được quy định trong luật như một bộ phận không thể tách rời.
Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mang tính cương quyết, quyết liệt và bắt buộc nhằm trừng trị những hành vi vi phạm, răn đe người phạm tội và ngăn ngừa những hành vi vi phạm tiếp theo có thể xảy ra.
Mặc dù đạo đức người thầy thuốc là một phạm trù của đạo đức, tuy nhiên như đã đề cập ở trên, với tính đặc thù của nghề y liên quan mật thiết đến sức khỏe, sinh mạng con người, vì vậy việc xử lý các hành vi vi phạm đạo đức thầy thuốc không đơn thuần chỉ thuộc lĩnh vực đạo đức được xử lí bằng tòa án tinh thần và sự trừng phạt của lương tâm. Nó cần được quy định và bảo đảm thực hiện bởi pháp luật công cụ sắc bén và nghiêm khắc của nhà nước, được bảo đảm thực hiện bởi quyền lực nhà nước.
Cũng tương tự như những hành vi vi phạm pháp luật khác, khi có sự vi phạm những quy định đã được thể hiện trong luật thì những hành vi đó tùy theo mức độ mà sẽ được áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý.
Các hành vi vi phạm y đức thì đa phần được xử lý theo các chế tài hành chính. Tại Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Điều 24 khoản 1 điểm đ có quy định về việc phạt tiền đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực khám chữa bệnh. Mức xử phạt cho những vi phạm trong lĩnh vực này có thể lên tới 100.00.000 đồng. Đồng thời, những biện pháp xử lý như tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn cũng được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Đặc biệt, đối với những hành vi vi phạm với tính chất nghiêm trọng đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì Bộ luật hình sự cũng có những chế tài nghiêm khắc để khắc chế. Có thể kể đến một số quy định tại Điều 99: Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; Điều 101 Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát: “Người nào xúi giục làm người khác tự sát hoặc giúp người khác tự sát, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm....” [51].
, đây là một vấn đề cũng còn gây nhiều tranh cãi hiện nay, khi mà trong hoàn cảnh bệnh tật hiểm nghèo không còn hy vọng mà điều kiện hoàn cảnh khó khăn người bệnh muốn được chấm dứt cuộc đời mình sớm so với tiếp tục chịu đựng. Đã
có nhiều trường hợp người bác sĩ đã toại nguyện cho họ ra đi thanh thản không đau đớn bằng cái chết nhân đạo nhưng sau đó lại vướng vòng lao lý khi những vấn đề về lương tâm, tình cảm và đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc được pháp luật ghi nhận có điểm không tương đồng. Điều 102 Luật này cũng quy định về Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” [51]. Đặc biệt đối với người thầy thuốc là người hành nghề y cứu người có nghĩa vụ phải cứu giúp mà không giúp thì hành vi này sẽ bị chuyển sang khung hình phạt nặng hơn.
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 luật này và tội đưa hối lộ Điều 289, Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi Điều 291 cũng được xem là những chế tài nhằm khắc chế những hành vi vi phạm về đạo đức nghề thầy thuốc.
Tại Thông tư 07 cũng được quy định cụ thể về Xử lý vi phạm những quy tắc ứng xử của y đức, đồng thời cũng chỉ ra những hình thức xử lý vi phạm và trách nhiệm của những cơ quan hữu quan ở Điều 16 Thông tư này.
1.3.4. Pháp luật góp phần định hướng dư luận xã hội, xây dựng ý thức pháp luật về đạo đức thầy thuốc trong đời sống pháp lý
Dư luận là một hiện tượng tinh thần trong đời sống xã hội, là sự đánh giá, phán xét, biểu thị thái độ của cá nhân, các nhóm xã hội đối với sự kiện, hiện tượng xảy ra có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của các thành viên trong xã hội. Dư luận xã hội có một số đặc điểm chính đó là tính khuynh hướng, tính lợi ích, tính lan truyền, tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi, tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế. Dư luận xã hội được nhìn nhận như là thước đo bầu không khí chính trị, xã hội; là tấm gương phản hồi đường lối, chính sách, pháp luật của Chính phủ; phản ánh tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân; đánh giá năng lực, phẩm chất của người lãnh đạo; có thể dựa vào dư luận xã hội để dự báo được những diễn biến sắp tới của đời sống xã hội; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tăng cường
mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân, ngăn ngừa tệ quan liêu, xa rời quần chúng,.. Dư luận xã hội không phải là tin đồn, tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực thì nó cũng mang đến nhiều mặt trái khi mà trong thời đại bùng nổ thông tin từ mạng Internet toàn cầu hiện nay, người ta có thể tìm thấy bất cứ thông tin nào từ một cú nhấp chuột mà không nhiều trong số đó được kiểm chứng, bảo đảm về chất lượng và độ chính xác của thông tin. Việc nhiễu loạn nguồn thông tin có thể dẫn tới nhiều hệ lụy đối với dư luận xã hội, và có thể, nó có khả năng tạo nên những tác động to lớn khôn lường, ngoài tầm kiểm soát. Vì lẽ đó, pháp luật cần sử dụng quyền năng của mình để định hướng dư luận xã hội, thiết lập nên những quy chuẩn cho truyền thông để chuẩn mực hóa nó.
Một mặt, pháp luật định hướng dư luận xã hội bằng cách quy định những chuẩn mực, quy tắc hành vi chung và phổ biến trong toàn cộng đồng. Từ đó, pháp luật trở thành thước đo cho mọi hành vi ứng xử và đánh giá xã hội. Việc một người có hành vi trái với pháp luật, đi lệch với chuẩn mực chung mà cả xã hội tuân theo và thừa nhận thì như một quy luật, hành vi đó sẽ trở thành hành vi bị dư luận xã hội lên án. Việc mọi người đều tuân theo một quy chuẩn chung, và việc lên án hay tuyên dương của dư luận xã hội diễn ra trong thời gian dài, liên tục vô hình chung sẽ dần dần, từng bước xây dựng lên ý thức pháp luật cho mọi cá nhân trong xã hội. Mặt khác, pháp luật đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cộng đồng. Giáo dục pháp luật là sự tác động chủ động của chủ thể giáo dục lên khách thể (đối tượng của giáo dục), nhằm cung cấp tri thức pháp luật, hình thành tình cảm, thái độ tích cực đối với pháp luật, tạo dựng thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật một cách tích cực, chủ động. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống, xây dựng ý thức pháp luật.
Trong việc xây dựng đạo đức người thầy thuốc, việc đưa những quy định về đạo đức người thầy thuốc vào luật và giảng dạy như một môn học tại các cơ sở đào tạo y tế và phổ biến ra toàn xã hội, thứ nhất giúp cho chính những người thầy thuốc hiểu được những quy chuẩn hành vi được cả xã hội thừa nhận, nhận ra rằng việc
mình tuân thủ hay không tuân thủ những quy định đó sẽ mang đến hậu quả và phản ứng của dư luận như thế nào. Từ đó, hình thành trong họ ý thức tuân thủ pháp luật. Thứ hai, điều này còn giúp cho những người không chuyên và không có cơ hội tiếp cận sâu với nghề y có được sự hiểu biết về những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp mà người thầy thuốc phải tuân thủ. Đồng thời từ đó họ cũng có cơ sở và căn cứ để bảo vệ mình trước sự vi phạm về y đức của những người hành nghề y thuật.
Có thể hiểu rõ hơn về quan điểm này từ trường hợp nghiên cứu y sinh. Nếu những quy tắc đạo đức trong nghiên cứu y học như việc tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân, không được thử nghiệm các loại thuốc mới trên người bệnh chỉ là những quy chuẩn đạo đức được giảng dạy trong các trường y học, hay được phổ biến trong nội bộ ngành y thì bệnh nhân, những người là đối tượng trực tiếp bị ảnh hưởng bởi những hành vi này khó mà có thể tiếp cận và hiểu được quyền của mình. Khi đó, người thầy thuốc có thể dễ dàng xâm phạm quyền lợi của họ bằng việc bất chấp đạo đức nghề nghiệp và lương tâm mà không gặp phải sự nghi ngờ hay phản ứng từ phía người bệnh, và hơn nữa, những vi phạm đạo đức này cũng không được xử lý về mặt pháp luật khi mà pháp luật không ghi nhận nó vào văn bản pháp luật
Bên cạnh đó, trong thời đại ngày nay, dân trí càng cao, nhu cầu tiếp nhận thông tin hàng ngày cũng tăng lên. Cùng với sự bùng nổ thông tin song hành với internet Do đó, việc định hướng dư luận, quản lý thông tin và truyền thông, xây dựng ý thức pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng của pháp luật. Các chủ trương, chính sách, quy định pháp luật được pháp luật tác động đến truyền thông nhằm tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong xã hội, góp phần tích cực nâng cao nhận thức của nhân dân trong đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật. Truyền thông cũng đã góp phần quan trọng trong việc làm tăng tính công khai, minh bạch của hệ thống cơ quan nhà nước, giám sát chặt chẽ hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành, thực thi công vụ của lãnh đạo các cơ quan đó.
Trong lĩnh vực xây dựng y đức, không nằm ngoài vai trò thông tin, tuyên truyền và giám sát như đã nói ở trên, pháp luật có những quy định trong việc các cơ