Ngoài ra, trong một số trường hợp, năng lực hành vi còn là tư cách chủ thể của người đó. Trong các giao dịch dân sự có đối tượng là tài sản chung thì người xác lập quan hệ ngoài năng lực hành vi của mình còn phải có tư cách đại diện cho các đồng chủ sở hữu chung khác.
Ví dụ: bán nhà thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của nhiều người phải được sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các chủ sở hữu.
Như vậy, do người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy, hợp đồng của họ phải được xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác lập, thực hiện.
Tuy nhiên, hợp đồng giao dịch do những người này xác lập không mặc nhiên bị coi là vô hiệu, mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện cho họ (Điều 130, Bộ luật dân sự) hoặc do chính họ yêu cầu (Điều 133, Bộ luật dân sự). Người đã xác lập hợp đồng với những người này không có quyền yêu cầu đó. Ngoài ra, họ còn phải bồi thường thiệt hại cho người chưa đủ năng lực hành vi hoặc người có năng lực hành vi nhưng xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
* Đối với các chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác).
Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ (đại diện theo pháp luật, theo ủy quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên, pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác theo quy định của pháp luật (Điều 106, Bộ luật dân sự). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111, Bộ luật dân sự). Người đại diện xác lập giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.
Tuy nhiên, làm thế nào để xác định pháp nhân tham gia hợp đồng giao dịch là phù hợp với chức năng nhiệm vụ của pháp nhân? Thông thường, trên thực tế cũng như theo lý luận thì người ta thường căn cứ vào đăng ký kinh doanh, hoặc quyết định thành lập của pháp nhân đó để xác định chức năng nhiệm vụ của pháp nhân đó. Cũng có những trường hợp pháp nhân ký kết hợp đồng giao dịch phù hợp với chức năng nhiệm vụ của mình nhưng tư cách người đại diện của pháp nhân lại không đúng.
Về nguyên tắc, việc ký kết hợp đồng của một bên là pháp nhân được thực hiện thông qua người đứng đầu hợp pháp của pháp nhân gọi là người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào người đại diện theo pháp luật đều có thể thực hiện việc ký kết toàn bộ các hợp đồng của pháp nhân mình. Thực tế này đòi hỏi người đứng đầu phải ủy quyền cho người khác ký thay mình - người đại diện theo ủy quyền. Trong trường hợp người ký không có ủy quyền hoặc vượt quá thẩm quyền và nội dung ký hợp đồng không nằm trong phạm vi ủy quyền đó, thì hợp đồng đã ký sẽ vô hiệu toàn bộ. Sau đây là một ví dụ sinh động trong trường hợp các hợp đồng được ký kết tại Công ty Phú Mỹ Hưng giai đoạn năm 2000 và 2001.
Ví dụ: Theo đơn khởi kiện của bà Trần Thị Thùy Trang tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7/2000 Công ty Phú Mỹ Hưng thỏa thuận bán cho bà Trang căn nhà A2-05 lô H7 với giá gần 152.200 USD, đặt cọc trước 16.555 USD. Sau khi ký hợp đồng này, bà Trang đã đầu tư hàng trăm triệu đồng để thay đổi một số điểm thiết kế, lắp đặt thiết bị. Việc này được Công ty Phú Mỹ Hưng chấp thuận. Nhưng đến khi bàn tiếp việc ký kết hợp đồng chính thức bàn giao nhà thì đôi bên không thỏa thuận được. Công ty Phú Mỹ Hưng lại
Có thể bạn quan tâm!
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự - 5
- Hậu Quả Pháp Lý Của Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
- Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dấn Sự Theo Pháp Luật Việt Nam Hiện Hành
- Người Tham Gia Giao Kết Hợp Đồng Hoàn Toàn Tự Nguyện
- Nhận Xét Đối Với Quy Định Của Pháp Luật Về Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân Sự Và Thực Tiến Áp Dụng
- Thực Trạng Áp Dụng Pháp Luật Để Giải Quyết Các Tranh Chấp Về Hợp Đồng Vi Phạm Các Điều Kiện Có Hiệu Lực
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
tuyên bố từ 28/8/2001 sẽ bán biệt thự trên cho người khác. Bà Trang kiện ra tòa, yêu cầu Công ty Phú Mỹ Hưng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Tại phiên tòa, Công ty Phú Mỹ Hưng cho rằng hợp đồng đã ký không hợp pháp, bởi đại diện của công ty trong hợp đồng lúc đó không phải là tổng giám đốc hay người được tổng giám đốc ủy quyền hợp lệ. Hội đồng xét xử chấp nhận lập luận này, cho rằng việc kinh doanh của Công ty Phú Mỹ Hưng trường hợp này là vi phạm pháp luật, vì hợp đồng mua bán được ký kết khi căn nhà nhà chưa hiện hữu trên thực tế, không có giấy tờ nhà đã qua công chứng, người ký kết không có ủy quyền hợp lệ... Tòa tuyên hợp đồng vô hiệu, buộc hai bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Qua ví dụ trên cho thấy, việc Tòa án căn cứ vào viện dẫn của Công ty Phú Mỹ Hưng về việc ký hợp đồng không thông qua người đại diện có thẩm quyền (Phó tổng giám đốc) để tuyên hợp đồng vô hiệu là đúng pháp luật hiện hành. Song xem xét ở góc độ thực tế thì chúng tôi cho rằng chưa thực sự đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người dân - những người là khách hàng của Công ty Phú Mỹ Hưng. Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này cần xác định ý chí chủ quan của người đại diện hợp pháp, đó là người này có biết hoặc buộc phải biết việc ký kết hợp đồng nói trên không? Trên thực tế hợp đồng được ký kết từ tháng 7/2000, có đóng dấu của Công ty Phú Mỹ Hưng và được các bên thực hiện trên thực tế, mãi đến tháng 8/2001 khi có tranh chấp giữa khách hàng và Công ty Phú Mỹ Hưng do không tiếp tục thỏa thuận được một số điều khoản trong hợp đồng chính thức thì Tổng giám đốc Công ty Phú Mỹ Hưng mới viện dẫn việc Phó tổng giám đốc ký hợp đồng không có ủy quyền để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu.
Theo quan điểm chúng tôi, trong trường hợp này ông Tổng giám đốc đã biết và không có ý kiến tức là mặc nhiên thừa nhận sự đại diện của Phó tổng giám đốc (và nếu có cho rằng không biết thì cũng nên vận dụng quy định "luật buộc phải biết" mới hợp lý). Nên công ty không thể viện dẫn việc
ký kết hợp đồng không có ủy quyền để tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi mà ý chí thực tế của bên kia vẫn mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Việc tuyên bố những trường hợp này chỉ nên khi mà nội dung hợp đồng không phù hợp quy định pháp luật và không bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng. Có nên đặt ra câu hỏi Công ty Phú Mỹ Hưng đã cố tình ký những hợp đồng này thông qua người không được ủy quyền để khi không có lợi cho mình (nhất là khi giá nhà lên cao, có chênh lệch lớn về giá muốn hủy hợp đồng cũ để ký hợp đồng khác với giá bán cao hơn) thì yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu!
Việc giải quyết vụ việc như vậy sẽ tạo tiền đề cho các chủ thể am hiểu pháp luật lách luật và khi tranh chấp xẩy ra thì thiệt hại lại thuộc về người dân - những người không thể tự trang bị cho mình đầy đủ kiến thức pháp lý khi tham gia các hợp đồng đầu tư phức tạp.
2.1.2. Mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 123, Bộ luật dân sự). Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ các các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của hợp đồng có liên quan chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự luôn nhằm đạt được mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thỏa thuận về nội dung và ngược lại những cam kết, thỏa thuận về nội dung của họ là để đạt được mục đích của hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này họ phải thỏa thuận được về nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm, phương
thức thực hiện hợp đồng. Sự thỏa thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là chuyển quyền sở hữu tài sản.
Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập và thực hiện hợp đồng, giao dịch dân sự. Tuy nhiên, "tự do thực hiện hợp đồng chỉ được thừa nhận ở mức độ hợp lý, nếu hợp đồng đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội". Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội bao gồm nội dung, mục đích của hợp đồng trái pháp luật, đạo đức xã hội. Hợp đồng dân sự vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Khi hợp đồng, giao dịch vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (khoản 2 Điều 137, Bộ luật dân sự).
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các bên buộc phải biết mình tham gia giao dịch, hợp đồng bất hợp pháp (mua bán các vật cấm lưu thông…). Đó là trường hợp pháp luật quy định đối tượng mà các chủ thể không thể thực hiện giao dịch dân sự. Trong trường hợp này, các bên đều có lỗi và phải chịu thiệt hại ngoài ra còn phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thông thường các quy định của pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Tuy nhiên, có một số giao dịch, hợp đồng không có quy định của pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn bị coi là vô hiệu vì xâm phạm đạo đức xã hội (ví dụ: hợp đồng ngăn cản cha mẹ và con cái sống chung được coi là vô hiệu vì vi phạm đạo đức xã hội).
Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội (Điều 122, Bộ luật dân sự), không vi phạm điều cấm của pháp luật, không xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10, Bộ luật dân sự). Vì thế, chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công
việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung hợp pháp mới làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó. Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về hai cụm từ "nội dung" và "điều cấm của pháp luật".
Về khái niệm điều cấm của pháp luật có nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng, đó phải là các quy định cấm của pháp luật, chính xác hơn là những quy định cấm được ghi nhận trong các văn bản luật: không cho phép một chủ thể thực hiện. Cách khác lại hiểu pháp luật theo nghĩa rộng hơn, đó là bao gồm toàn bộ các quy định của pháp luật, của thông lệ, tập quán, của các văn bản hướng dẫn và kể cả các văn bản của các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong trường hợp này bất cứ vi phạm quy định cấm nào của các văn bản trên cũng sẽ đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng. Đây chính là cách hiểu và được vận dụng tương đối phổ biến trong giải quyết tranh chấp dân sự hiện nay. Chính sự không thống nhất trong cách hiểu như trên đã đưa đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật về lĩnh vực này với những hậu quả pháp lý khác nhau.
Thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp cho thấy khái niệm vi phạm điều cấm của pháp luật là rất rộng, có phạm vi co giãn lớn và được hiểu là bất cứ nội dung nào của hợp đồng trái với các quy định của pháp luật cũng như các quy định hướng dẫn đều bị coi là vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ sau đây sẽ minh chứng cho nhận xét này:
Theo bản án dân sự phúc thẩm số 110/2007/DSPT ngày 16/5/2007 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. Ngày 19/3/1990 ông Bình và bà Chại được UBND huyện Trạm Tấu thanh lý hóa giá 4 gian nhà cấp 4 trên diện tích đất cả vườn là 400m2. Năm 1997 ông Bình và bà Chại được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 133,75m2, phần đất còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Ông Bình và bà Chại đã dựng hai nhà gỗ lợp ngói trong đó có một nhà dựng trên cả phần đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận.
Ngày 7/8/2000 ông Bình và bà Chại đã ký bán căn nhà (làm cả trên phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận) cho bà Minh với thỏa thuận "ông Bình và bà Chại phải chịu toàn bộ mọi chi phí sang tên đổi chủ về đất và lo thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tách ra từ Giấy chứng nhận của nhà ông Bình và bà Chại ".
Hợp đồng mua bán trên có ông Chính ký làm chứng và được ký đóng dấu xác nhận của chủ tịch UBND thị trấn Trạm Tấu. Nhưng trong quá trình thực hiện thỏa thuận của hợp đồng, ông Bình và bà Chại không thể làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Minh. Ngày 04/6/2004 chị Minh gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Trạm Tấu về việc bà Chại và ông Bình không thực hiện đúng nội dung hợp đồng, yêu cầu ông Bình và bà Chại tiếp tục thực hiện nội dung thỏa thuận trong hợp đồng. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02 ngày 29/9/2004 TAND huyện Trạm Tấu quyết định: Buộc bà Chại và ông Bình phải hoàn trả cho chị Minh tiền chị Minh đã đóng thuế chuyển quyền sử dụng đất và tiền giao đất. Tại bản án 31/DSPT ngày 23/10/2004, TAND tỉnh Yên Bái quyết định: Hủy bản án sơ thẩm dân sự số 02 ngày 29/9/2004 của TAND huyện Trạm Tấu. Giao hồ sơ về TAND huyện Trạm Tấu điều tra xét xử lại. Nhưng do không có Thẩm phán để xét xử, TAND huyện đã chuyển hồ sơ lên TAND tỉnh giải quyết. Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự số 01/QĐHGT ngày 19/4/2005 TAND tỉnh Yên Bái đã công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: tiếp tục thực hiện thỏa thuận trong hợp đồng mua bán nhà.
Nhưng sau đó các bên không thực hiện được đã khiếu nại lên Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án TAND tối cao đã kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm với hướng đề nghị hủy quyết định nói trên. Tại quyết định giám đốc thẩm số 168/2006/DS-GĐT ngày 24/7/2006 của TANDTC đã xử hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự số 01/QĐHGT ngày 19/4/2005 với lý do: bà Chại và ông Bình đã bán cả phần đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có cơ sở pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2006/DSST ngày 28/12/2006 Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã xử: Hợp đồng mua bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Bình bà Chại và bà Minh là vô hiệu do vi phạm pháp luật; Bác đơn khởi kiện của bà Minh yêu cầu được thực hiện hợp đồng trên; Hủy hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ ông Bình bà Chại và bà Minh.
Ngày 06/01/2007 bà Minh kháng cáo. Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bản án 110/2007DSPT ngày 16/5/2007 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xét thấy việc ông Bình, bà Chại chuyển nhượng cho chị Minh diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp pháp. Riêng một phần diện tích đất gia đình bà Chại chưa được cấp quyền sử dụng đất mà vẫn chuyển nhượng cho chị Minh là vi phạm Điều 30 Luật đất đai và khoản 2 Điều 131, Bộ luật dân sự 1995. Như vậy, chỉ một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu cần yêu cầu ông Bình và bà Chại phải thực hiện phần hợp đồng hợp pháp, giao phần nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Minh. Đối với phần hợp đồng vô hiệu cần buộc bà Chại và ông Bình trả chị Minh giá trị quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận mà đã bán và lấy tiền theo giá thị trường thì mới đảm bảo quyền lợi cho bên mua. Những việc này không thể thực hiện được ở Tòa Phúc thẩm vì vậy Tòa Phúc thẩm - TANDTC đã tuyên: Hủy bản án dân sự sơ thẩm 02/2006/DSST ngày 28/12/2006 của TAND tỉnh Yên Bái, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Yên Bái giải quyết lại vụ án.
Ví dụ trên cho thấy, khái niệm vi phạm điều cấm của pháp luật trên thực tế được hiểu rất khác nhau ở các cấp xét xử khác nhau. Người áp dụng chúng có thể suy diễn chủ quan theo nhiều cách hiểu khác nhau và thường lẫn lộn với việc thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật.
Chúng ta xem xét một ví dụ nữa. Theo Luật nhà ở Điều 39 quy định "Chủ đầu tư huy động vốn từ tiền ứng trước của người có nhu cầu mua hoặc