Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 - 4


Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đem đến cho người đọc một cảm giác thư thái, an bình, bị cuốn hút bởi mạch truyện và văn phong êm dịu, nhẹ nhàng nhưng không hề nhàm chán. Mỗi câu văn như một lời thủ thỉ, tâm tình đầy quyến rũ như những câu thơ được viết bằng văn xuôi.


III. NHỮNG GƯƠNG M ẶT TIÊU BIỂU TẠO NÊN DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945

Với sự ảnh hưởng đặc biệt về phong cách viết của mình đối với một số nhà văn khác cùng giai đoạn, có thể nói Thạch Lam (sinh năm 1910, mất năm 1942, tên thật là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân) là người khởi xướng một cách không chính thức, đồng thời cũng là đại diện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945. Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đương thời một cách cảm thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm của con người. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái nhỏ nhất của tâm hồn. Thạch Lam thường khai thác chất thơ trong đời sống hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột giàu kịch tính. Truyện của ông thường mang yếu tố phi cốt truyện, loại truyện không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hành động phát triển xung đột, mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu chuyện kể lại cái cảnh hai chị em ngồi trông một ngôi hàng tạp hoá nghèo nàn trong một buổi tối như bao buổi tối khác. Bóng tối - bầu trời và những ngọn đèn, đó là những điểm tựa khơi dậy trong cô bé Liên một chuỗi những liên tưởng, những kỉ niệm. Ở đây, người đọc không chỉ cảm nhận


được tâm hồn đầy lãng mạn với những ước mơ đẹp đẽ của hai đứa bé nghèo ở một cái ga xép nhỏ mà còn cảm thấy hồn của quê hương, đất nước toả ra từ cái không gian thanh bình thấm đẫm chất thơ của những buổi chiều “êm như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”, những buổi tối có “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào những cành cây”, và những “đêm mùa hạ êm ả như nhung và thoảng qua gió mát”… Sở trường của Thạch Lam trong truyện ngắn là đưa ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hướng tâm lý. Từ buồn ra vui, từ giận ra thương, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay ngược lại. Một anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán chường, sáng dậy bỗng thấy vui vẻ nhẹ nhàng trước cảnh ngày trời mai tươi mát và hình ảnh bà mẹ già trìu mến phúc hậu (Buổi sớm, Nắng trong vườn). Những biến đổi tình cảm như trên làm phần then chốt ở rất nhiều truyện của Thạch Lam như : Gió đầu mùa, Những ngày vui, Một cơn giận, Sợi tóc, Tình xưa, Bên kia sông,… Nhà phê bình Phong Lê nhận xét Ở thế giới nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, tất cả đều hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói gắt, không có những vang động mạnh, nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận con người. Những truyện hay của Thạch Lam, thường có nhiều bóng tối: không phải cái “tối như mực”, mà cái tối của hoàng hôn, của ánh ngày tàn” [73,92]. Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực được kéo lùi về quá khứ (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ). Không gian nghệ thuật của ông thường là các phố huyện, chợ huyện, phố ga (Cô hàng xén, Tối ba mươi, Nhà mẹ Lê). Nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính cách, chỉ bộc lộ những tâm trạng, những nét tâm lý. Đó là những con người nội tâm, có tâm hồn tinh tế, thường tự cảm về mình, giàu xúc cảm và ít hoạt động.


Truyện của ông giống như những bài thơ trữ tình, mà ở đó thiên nhiên được miêu tả không chỉ qua thị giác, thính giác mà còn ở cảm giác: “… trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí…Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ ở trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa… bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào ” (Dưới bóng hoàng lan); “Ở ngoài trăng rằm vằng vặc, tường vôi sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong” (Tình xưa)…, và những trạng thái thay đổi thật tinh tế trong tâm hồn con người: “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải” (Dưới bóng hoàng lan); “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” (Hai đứa trẻ); “Tôi thấy lòng nao nao vừa bực vừa buồn, như thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không còn can đảm giữ lại được nữa” (Tình xưa)…, với một giọng văn rất riêng: thủ thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần như thì thầm: “chúng tôi nghe ngóng cái yên lặng của buổi trưa, hình như theo dòng nước trôi ánh nắng đi xa” (Nắng trong vườn); “Gió thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông hồng nhung thẫm tan vào đêm tối… cánh hồng nhung đen thẫm… đẫm một mùi hương nồng và ân ái” (Đêm sáng trăng)… Với những truyện ngắn mang một phong cách độc đáo, riêng biệt, Thạch Lam quả đã có đóng góp rất lớn cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam, và đặc biệt là ông đã để lại những ảnh hưởng rất rõ rệt cho những nhà văn khác như Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn, Ngọc Giao, Thanh Châu…


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Rất gần gũi và bị ảnh hưởng về phong cách viết từ Thạch Lam là nhà văn mang trong mình hai dòng máu Việt - Hoa, nhà văn Hồ Dzếnh. Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916, mất năm 1991. Truyện ngắn của Hồ Dzếnh là nỗi đau và niềm cảm thương, cả hai đều vô hạn, ẩn chứa, tiềm tàng như hai con suối được khơi lên với một tiết tấu khi dạt dào, lúc thấm thía, ngân nga và không lúc nào ngừng nghỉ. Hai con suối ấy đều là hoài niệm, từ cái nhìn ngược lại phía sau, phía quá vãng của chủ thể sáng tạo - mà ở đây cũng là chủ thể trữ tình, vì vậy bao giờ cũng bâng khuâng man mác. Tuy viết không nhiều nhưng với tập truyện ngắn Chân trời cũ, Hồ Dzếnh đã để lại nhiều dư vị đặc biệt trong lòng độc giả bởi tấm lòng nhân hậu, giàu thương cảm, ở sự gắn bó với quê hương, và ở ngòi bút trữ tình thấm đượm, chan chứa chất thơ. Mỗi truyện ngắn ở đây là một cảnh đời, của người thân trong gia đình hoặc người trong làng xóm của tác giả lúc tuổi thơ, cũng là một mảnh tâm hồn của nhà văn cất giữ trong đó. Tác phẩm có chất thơ của hoài niệm buồn thương, cũng là chất thơ toát lên từ những cuộc đời vất vả đau thương của con người Việt Nam, quê ngoại mà tác giả gắn bó bằng cả máu thịt và tâm hồn mình. Ở Hồ Dzếnh, tình cảm gắn bó tha thiết đối với đất nước Việt Nam, “dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng lịch sử” (Chị Yên), hoà với lòng yêu thương, quý trọng vô hạn đối với người mẹ, người chị nuôi, “những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó vì chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hi sinh mãi”(Thạch Lam - Tựa Chân trời cũ). Văn Hồ Dzếnh thường đượm buồn, song không phải thứ buồn thi vị ngọt ngào mà là nỗi buồn của chính những “số phận bắt buộc phải buồn rầu”, “người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ”. Kể về


Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945 - 4

cuộc đời đau khổ của những người thân yêu đó, Hồ Dzếnh thường day dứt, xót xa. Văn Hồ Dzếnh giàu cảm xúc, ý vị, tuy mực thước, trau chuốt, mà đầy lắng đọng. Đó là chất giọng tâm tình cứ nhẩn nha mà khắc hoạ, mà lưu giữ trong tâm trí người đọc bao cung bậc thiết tha, buồn vui, yêu ghét,… Văn ông âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, khi hùng hồn, cuốn người đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó lòng cưỡng nổi: “ Chỉ sau mươi phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ” (Ngày gặp gỡ). Thiên nhiên trong truyện ngắn Hồ Dzếnh thật đa dạng trong sự liên tưởng đầy chất thơ: “Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng” (Ngày gặp gỡ); “Bầu trời sáng và rộng, luôn luôn thấy những buổi hiền hoà, cây xanh gió mát nhịp nhàng với nhau như trong một bài thơ cổ” (Trong bóng rừng). Hồ Dzếnh có một khả năng diễn tả tâm trạng mơ hồ rất tốt, nhiều đoạn viết của ông đầy sự lung linh, huyền bí, xa xôi, lơ lửng: “Fin đắm chìm trong công việc, trong lòng trẻ nhỏ thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm thấy được nữa trên đường đời… Nhiều lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai vào không khí, tựa hồ như nghe ngóng một tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng rất đáng yêu” (Trong bóng rừng). Đây là đoạn tả cảm giác của tác giả trước cái đẹp của Fin, một bông hoa rừng thật đẹp nhưng xa lạ, một thứ hương thơm mà kẻ nhìn ngắm nó không thể cầm nắm được trong tay. Văn xuôi của Hồ Dzếnh đã thật sự mở rộng khả năng của truyện ngắn trữ tình. Phá bỏ cái khung chật hẹp của thể


loại, đưa vào đó cái kích thước tối ưu của sự tự biểu hiện, ông đã tạo nên sự giao thoa, nối tiếp giữa truyện và thơ, không cần cốt truyện hấp dẫn, không cần nhân vật có tính cách độc đáo. Truyện ngắn Hồ Dzếnh thường ôm trùm dung lượng của cả một đời người, một kiếp người. Ông không kể và tả tỉ mỉ các biến cố bất hạnh đẩy nhân vật đến tình trạng trôi dạt, bi đát mà thường dùng bút pháp tự sự khái quát. Cái quan trọng chính là thái độ riêng tư, niềm thương cảm xót xa của ông trước những cảnh ngộ, biến cố ấy. Vì vậy dấu ấn của tình cảm, cảm xúc và trạng thái tinh thần của người trần thuật thường lấn lướt hơn, được tô đậm hơn so với biến cố và sự kiện bên ngoài. Cốt truyện trong Chị Yên được kiến tạo bởi sự liên kết các trạng thái tâm lý gồm sự ân hận vì hành vi bất công, thô bạo đối với Yên trong quá khứ; nỗi căm phẫn nghẹn ngào trước người cậu khốn nạn đã làm tan nát cả đời chị; lòng đau xót cho cái chết bi thảm của chị và của chồng con chị. So với Thạch Lam, Hồ Dzếnh bộc lộ mình qua những dòng độc thoại rộng rãi, chủ quan và thống thiết hơn. Do vậy, truyện ngắn của ông giống như tuỳ bút-thơ hơn.

Là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu (1916- 1985) cũng đồng thời là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Hai tập Phấn thông vàng Trường ca đã góp cho văn đàn Việt Nam những truyện ngắn mang hương sắc riêng, những truyện không có truyện mà chan chứa chất thơ. Nhà thơ tù nhân của chữ Tình (Chu Sơn), có trái tim cháy bỏng, luôn thèm khát sự sống tới cuồng nhiệt đó tỏ ra rất ghê sợ lối sống nhàm tẻ, tù đọng trong “cái Ao Đời bằng phẳng” giết chết con người trong lúc sống. Toả nhị kiều là hình ảnh giàu sức gợi về những cuộc đời nhạt nhẽo, vô vị. Ở đây, người viết tách ra khỏi nhân vật, xem nhân vật là đối


tượng quan sát, còn tâm tình, cảm nghĩ của người viết là khúc xạ, là kết quả những âm vang toát ra từ hai cuộc đời lỡ nhịp, tẻ nhạt “không ánh nắng, chẳng hương người” của hai cô gái Hà Thành: “ngồi trong một buổi chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền miên của sự vật và của linh hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý. Tôi như cảm nghe sự mờ nhạt của cuộc đời, khi trông thấy hai cô”. Suốt đời, Xuân Diệu căm ghét sự sống mòn “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” đó, nó giết chết con người ngay trong lúc sống, mà những tâm hồn khát sống phải vùng vẫy tung ra. Có những lúc, nhà thơ của xuân và tình đó chan chứa niềm thương cảm đối với những cuộc đời nghèo khổ bị hắt hủi. Hình ảnh bà lão nghèo lủi thủi, như cái bóng chìm mất trong bóng tối trên con đường chiều đã gieo vào lòng Xuân Diệu nỗi “thắc mắc, lẫn kinh dị trong vô hạn xót thương”: “Bà già hay là hiện hình của sự đau khổ?… Bà lão về đâu? Một ổ rơm nếp bên đường, hay một cái chòi lạc giữa bụi cây?” (Thương vay). Ngay từ tuổi thơ, Xuân Diệu đã sớm có dịp thấm thía những cảnh đời ngang trái, bất công. Cái hoả lò, Đứa ăn mày, … là những cảnh đời thường tủi nhục như thế: “Một cậu nhỏ mười sáu tuổi, một thằng bé mười hai tuổi, hai đứa đâu phải là người lớn để sửa lại một cảnh đời! Chỉ có nước mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại”. Đó cũng chính là những kỉ niệm xót xa trong tuổi thơ của tác giả vốn giàu lòng thương cảm đối với những cuộc đời đau khổ, bị ruồng rẫy, hắt hủi. Xuân Diệu viết văn như làm thơ. Cốt truyện chỉ như cái cớ khơi gợi và mở ra những hướng liên hệ, suy tưởng. Truyện ngắn của ông luôn có một dòng cảm nghĩ trôi chảy như con suối nhỏ róc rách đem đến sự trong trẻo tươi mát cho tác phẩm. Điều ông quan tâm là sự tự bộc lộ và giãi bầy tâm trạng. Những trạng thái tâm hồn thay thế cho các sự kiện, biến cố ly kỳ của truyện tự sự


thông thường. Điều này đã làm biến đổi chủ thể sáng tạo để biến người viết văn xuôi trở thành một thi sỹ trong khả năng cảm nhận và tự biểu hiện mình. Những liên tưởng, so sánh tạt ngang với những liên tưởng bất ngờ, đa chiều ở những đoạn trữ tình ngoại đề luôn được mở rộng trong truyện ngắn Xuân Diệu tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ: “tôi thương hai cô như hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh khi chiều giăng lưới qua muôn gốc cây”, “nhiều lần theo một liên tưởng nhanh chóng, tôi nghĩ đến những cụ già còn đôi chút sức lực ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong nhà”, “tôi lại nhớ những khi xế trưa, khi nắng ngã vào bếp nhà tôi. Nắng vàng phai lặng, chán ngán làm sao! Lúc ấy mọi người đều cảm thấy mơ hồ nỗi nhạt nhẽo của ngày này tiếp ngày nọ” (Toả nhị kiều). Truyện ngắn Thu của ông có lẽ gần với đoản văn hoặc tuỳ bút hơn. Đó là một giọng văn đầy lãng mạn, đầy thơ với những cảm nhận bay bổng, chơi vơi, mơ màng. Ông viết những cảm nhận của mình về mùa, về yêu: “Thu không phải là mùa sầu. Ấy chính là mùa yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn yêu mến nhau. […] Xuân, người ta vì ấm mà cần tình. Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi. Cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau, và lòng tôi nghe tất cả du dương của thứ vô tuyến điện ấy”. Truyện ngắn Phấn thông vàng là truyện của một chàng hoạ sỹ. Hoạ sỹ là người có tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm. Đã vậy, trên bước đường lang thang của mình, chàng hoạ sỹ lại bất chợt gặp được một cảnh rừng thông với sắc vàng “không rực rỡ nhưng nguy nga” đẹp đến mê hồn. Chàng hoạ sỹ là người đã từng yêu, mà yêu không phải ít, tới ba lần, nhưng rồi kết cục lần nào cũng gặp đau khổ. Là hoạ sỹ, mà trong hồn chàng lại trú ngụ sẵn một hồn thơ nữa. Vì thế, cái tâm hồn nhạy cảm, yếu đuối ấy đã sầu đau biết bao khi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/10/2023