Tác Động Từ Các Chính Sách Của Nhà Nước


tế, những bài mo hát trình diễn trong hiến tế, từ đó làm mất đi môi trường tồn tại của những giá trị văn hóa này. Trẻ em người Nùng Dín hiện nay vì thế cũng không được chứng kiến, tham gia vào các nghi lễ, nghe các bài mo nghi lễ về nội dung này, các em chỉ được nghe kể lại qua lời ông bà, cha mẹ. Những thực hành văn hóa ấy trở thành một câu chuyện hơn là một giá trị văn hóa truyền thống của tộc người. Trang phục cô dâu người Nùng Dín là một di sản văn hóa vật chất thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, chứa đựng giá trị kinh tế và giá trị lịch sử, mỹ thuật dân gian đang có nguy cơ bị mất đi.

Một yếu tố khác không kém phần quan trọng làm biến đổi hệ thống tri thức giáo dục địa phương của người Nùng Dín là sự giao thoa văn hóa với các tộc người khác nhất là tộc người Kinh. Nhiều thực hành văn hóa của tộc người đã chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa của tộc người Kinh. Ví dụ, quy trình của một đám cưới trước đây bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau, nay trong một số đám cưới của người Nùng Dín chỉ còn các nghi lễ quan trọng như lễ ăn hỏi, lễ cưới (giống đám cưới người Kinh). Hơn nữa, nhiều cô dâu, chú rể không còn thích mặc trang phục cưới của dân tộc mình mà thích trang điểm, chụp ảnh cưới, mặc áo cưới như người Kinh. Do rút ngắn thời gian lễ cưới nên các hội hát mừng đám cưới giữa ông bà đôi bên trai gái, các nghệ nhân thổi kèn đã nhạt dần, mai một chỉ còn ở một số ít đám cưới mà dần thay bằng bày đặt đầu, đĩa, ti vi, lao để phát các bài hát ca nhạc hiện đại. Thanh niên nam nữ không còn biết hát đối đáp giao duyên mừng đám cưới. Tri thức về nghệ thuật biểu diễn nhất là hát giao duyên đám cưới – một giá trị văn hóa truyền thống đang bị mất dần trong hệ thống tri thức địa phương để giáo dục trẻ em của người Nùng Dín. Theo số liệu điều tra về nghệ nhân hát dân ca ở làng Tùng Lâu ngày 28/6/1999 thì lứa tuổi 50 trở lên có 8 người, lứa tuổi trung niên từ 40 – 50 chỉ còn 6 người, lứa tuổi dưới 40 chỉ còn 4 người. Thế hệ trẻ (15 – 18 tuổi) cũng không

thích học hát dân ca mà đi học hát và nhảy nhạc nước ngoài 12.


12 Tư liệu Phòng Di sản văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai


Mặt khác, sự giao thoa văn hóa giữa người Nùng Dín ở đây và người Kinh là sự giao thoa giữa một nền văn hóa nhỏ, phổ biến trong 1 cộng đồng người với 1 nền văn hóa lớn, được chấp nhận rộng rãi trên nhiều phạm vi vùng miền. Người Nùng Dín trong điều kiện kinh tế - xã hội mới đã bắt đầu thoát ly khỏi địa bàn cư trú truyền thống để học tập, công tác ở các thị trấn, thành phố lớn, họ chịu ảnh hưởng của nếp sống đô thị - nơi mà đang phát triển những nền văn hóa mang tính hiện đại, những giá trị và chuẩn mực văn hóa hoàn toàn khác biệt. Môi trường làm việc mới và môi trường văn hóa mới cũng đã có ảnh hưởng đến những nhận thức của con người từ đó nó làm thay đổi một số chuẩn mực đạo đức, quan niệm về giá trị (quan niệm về tiền bạc, về lao động…), … đặc biệt, với lứa tuổi thanh niên thì những ảnh hưởng của văn hóa đô thị là rõ ràng và mạnh mẽ hơn cả (quan niệm thẩm mỹ, cách ăn mặc, ứng xử trong gia đình và xã hội, thay đổi về ngôn từ…). Vì vậy, khi trở về địa phương, họ đã tạo ra một trào lưu khác với truyền thống đồng thời làm một bộ phận giới trẻ ở địa phương cũng thay đổi theo. Và đôi khi, những trào lưu mà họ mang về gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống chuẩn mực đạo đức trong gia đình truyền thống và cộng đồng tộc người Nùng Dín ở đây. Lối sống ích kỷ, coi trọng đồng tiền nơi đô thị có thể là nguyên nhân của những bất hòa trong mối quan hệ gia đình, dòng họ và tộc người. Từ đó, nó phá vỡ dần môi trường văn hóa nơi mà hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em được tồn tại và thực hành.

3.3. Tác động từ các chính sách của Nhà nước

Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc Đổi mới, cùng với các nghị quyết của Bộ Chính trị, trong đó có Nghị quyết 22/NQ-TƯ năm 1989 là dấu ấn quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số; Nghị quyết 37/2004 của Bộ chính trị về giáo dục cũng khẳng định những quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Quyết định số 79/2005/QĐ-TTg ngày 15/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 37 - NQ/TW ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội vào bảo đảm quốc phòng an ninh vùng trung du và miền núi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.


phía Bắc đến 2010;… Điều kiện kinh tế - xã hội mới đã tác động lên nhiều mặt đời sống văn hóa của người Nùng Dín ở đây.

Tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín ở thôn Tùng Lâu, Xã Tung Chung Phố, Huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai - 12

Những chính sách y tế công trong việc ưu tiên chăm sóc sức khỏe của người dân tộc thiểu số cũng như việc tuyên truyền vận động đồng bào hiểu rõ hơn nguyên nhân của bệnh tật, ốm đau ở người, ở gia súc, gia cầm đã tác động đến quan niệm tín ngưỡng của đồng bào. Theo đồng bào, ốm đau bệnh tật là do con người bị các loại ma tà quỹ dữ ám hại, có nguy cơ dễ bị mất mát tang thương, theo quan niệm và thuật ngữ văn hóa tín ngưỡng dân gian gọi là “hung thần”. Loại ma tà này thường tiềm ẩn trong gốc cây, mái đá, suối nước, ao hồ, rừng núi, cơn gió, súc vật chó trời, nóc nhà thông qua một loại vật chất xúc tác nào đó làm cho con người yếu bóng vía, không đủ sức kháng cự trở nên ốm đau bệnh tật đột xuất, nếu không phát hiện kịp thời và cứu chữa bằng các bài mo cúng thích hợp sẽ làm con người dễ bị tổn thương tính mạng. Để phát hiện các loại ma này phải nhờ các thầy mo, thầy tào, thầy then bói toán bằng cách làm then “Hoóc tẳng”, bói đồng xu “hoóc gi ăng”, xem lá số tử vi “ngáu slưw mình” để biết sao chữa bệnh.Tùy theo từng loại nguyên nhân bệnh mà có các bài mo khác nhau để tiến hành trừ tà chữa bệnh. Những quan niệm đó tuy vẫn còn tồn tại ở thế hệ lớn tuổi trong thôn nhưng những thế hệ trẻ hiện nay đã ngày càng tin tưởng vào khoa học cũng như đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế nhà nước.

Về cưới xin, có nhiều biến đổi do sự tác động từ bên ngoài (yếu tố ngoại sinh) và xuất phát từ chính bên trong (yếu tố nội sinh). Sự ban hành và áp dụng sâu rộng Luật Hôn nhân và Gia đình đến người dân cùng sự thi hành các chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa mới đã góp phần làm thay đổi nhận thức của tộc người Nùng Dín về quan niệm hôn nhân và gia đình. Trong lễ thách cưới, các gia đình trong làng Tùng Lâu không còn thách cưới với số lượng lớn nữa mà thực hiện theo quy ước xây dựng nếp sống văn hóa mới của huyện, đặc biệt là bỏ đi thách cưới bộ trang phục cô dâu người Nùng Dín. Các nghi lễ cưới xin cũng được đơn giản hóa tục lệ thuận lợi cho cả hai bên gia đình. Lễ cưới tuy vẫn tổ chức ăn uống nhưng không kéo dài thời gian từ 2 – 3 ngày


tốn kém mà chuyển sang nâng cao chất lượng. Các tục lệ như đón dâu, đưa rể được đơn giản hóa, bỏ những tục lệ không cần thiết . Cô dâu về nhà chồng không còn trùm khăn, cưới ngựa mà chuyển sang đi bộ.

Về tang ma, yếu tố quan trọng làm biến đổi tập quán tổ chức tang ma của đồng bào là chủ trương bài trừ mê tín dị đoan và xây dựng nếp sống văn minh được đề cao. Người dân đã được giáo dục sâu rộng hơn tư tưởng tiến bộ, văn minh của nếp sống mới, xóa bỏ những hủ tục rườm rà, lạc hậu không cần thiết trong các nghi lễ và tập quán.

Trước hết là sự chuyển biến trong nhận thức về tang ma của người Nùng Dín. Tuy các thế hệ trung cao tuổi tuy vẫn quan niệm về cái chết và tổ chức tang lễ theo suy nghĩ cổ truyền ngày trước, song đã đơn giản hóa, không có nặng nề và chặt chẽ, cầu kỳ nữa. Các cụ đã không còn lo sắm áo quan bằng gỗ tốt bền lâu như ngày xưa vì rừng tự nhiên đã bị phá, gỗ tốt đã không còn. Không còn lo chỗ đặt mộ tốt để phù hộ con cháu mà chỉ mong sao được có sức khỏe, sống lâu; ăn ngon mặc đẹp, được nghỉ ngơi dưỡng lão lúc tuổi về già rồi nhắm mắt xuôi tay về với tổ tiên. Mọi việc chuẩn bị cho cái chết và tang lễ tùy con cháu lo liệu thể hiện sự nhận thức cao hơn, sự thích nghi với môi trường tự nhiên và xã hội. Điều đó thực sự là một chuyển biến lớn trong tư tưởng, trong quan niệm tín ngưỡng của đồng bào.

Còn thế hệ trẻ ngày nay, nhất là những người đi học hành, công tác ở các cấp (xã, huyện, tỉnh), cư trú ở các vùng trung tâm xã đã không còn quan niệm tín ngưỡng nặng nề như thế hệ các ông bà, cha mẹ mà ung dung bình thản, không lo lắng chuẩn bị cho sự chết và tổ chức tang lễ cho các bậc ông bà, cha mẹ. Nếu có ông bà, cha mẹ qua đời, gia đình có điều kiện thì tổ chức tang lễ, không thì để làm ma khô. Truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” và lòng hiếu thảo với cha mẹ bị phai nhạt theo xã hội thị trường.

Cùng với các quy định về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, nhiều nghi lễ trong tang ma người Nùng Dín cũng đã có sự biến đổi. Người Nùng Dín đã có nhiều cải tiến, cải biên nhiều nghi thức trong tang lễ để phù hợp với môi trường xã hội phát triển như: chôn cất người quá cố trước mới làm tang lễ sau


để đảm bảo vệ sinh môi trường, phù hợp với chính sách văn hóa mới của Đảng, nhà nước; lược bỏ một số nghi thức, lễ vật, các bài mo, cúng trong trong nghi lễ; gộp các nghi thức: kè đá và sửa mộ; gọi hồn lên bàn thờ gia tiên với lễ hạ huyệt; cải tiến nâng cao chất lượng các sinh hoạt ăn uống cộng đồng trong tang lễ…

Ngoài ra, các chính sách về phát triển giáo dục nhất là giáo dục miền núi khiến cho hệ thống giáo dục trường học ngày càng phổ biến đến người dân nói chung và người Nùng Dín nói riêng. Nhiều dự án giảm nghèo hỗ trợ cho giáo dục nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cơ bản cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số cũng được triển khai thực hiện như: Chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi); Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông nội trú theo Thông tư 16/GDĐT–ngày 14/8/1997 và Quyết định số 49/QĐ- GDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ Giáo dục – Đào tạo xác định mũi nhọn trong sự nghiệp vùng dân tộc và miền núi; Chính sách cử tuyển vào trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp thực hiện theo Nghị quyết 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và quyết định 72 của HĐBT ngày 13/3/1990; Chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng được Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành hàng năm (năm 2011, BGDĐ-GDĐH ngày 16/3/2011) là một trong những chính sách tạo ưu đãi về cơ hội học tập cho học sinh tại các vùng miền có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, nhằm tạo điều kiện để học sinh theo tiếp lên các hệ cao đẳng và đại học; Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo đi học tại các xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định 112/2007/QĐ-TTg hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống người dân. Trong đó có chính sách hỗ trợ học sinh nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn, góp phần thu hút con em các dân tộc thiểu số đến trường; Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề tại vùng dân tộc và miền núi; Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết định 157/QĐ-TTg


hướng đến đối tượng cho vay khá rộng gồm học sinh sinh viên thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo, mà trong đó cơ bản là các gia đình vùng dân tộc, miền núi;...

Mục tiêu của những dự án này là bảo đảm đưa dịch vụ giáo dục tới với người nghèo và đồng bào DTTS ở vùng sâu, vùng xa thông qua cung cấp nguồn lực và ban hành các chính sách về giáo dục để tăng cường cơ hội học tập như hỗ trợ học phí, hỗ trợ tiền đi lại, hỗ trợ xây dựng các trường học, phòng nội trú tại trường học với mục tiêu là mỗi xã và mỗi huyện một trường học. Bên cạnh các hỗ trợ trực tiếp từ hợp phần giáo dục, các hợp phần khác của các dự án này cũng thường có những tác động gián tiếp đến những thành quả giáo dục thông qua việc nâng cao đời sống hộ gia đình ở các vùng có chính sách.

Như đã nêu ở chương II, hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín bao gồm các nội dung như giáo dục đạo đức, lối sống, cách ứng xử trong gia đình, dòng họ, tộc người; giáo dục các kỹ năng lao động sản xuất; giáo dục các giá trị văn hóa tinh thần thông qua các sinh hoạt văn hóa trong gia đình và cộng đồng như tang ma, đám cưới, lễ hội, … Có thể thấy rằng, môi trường kinh tế cũng như môi trường văn hóa của tộc người Nùng Dín là cơ sở để hệ thống những tri thức về giáo dục trẻ em được tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, hiện nay do sự tác động mạnh mẽ của nhiều yếu tố, môi trường kinh tế và môi trường văn hóa ấy đã dần dần thay đổi kéo theo sự biến đổi trong hệ thống tri thức về giáo dục trẻ em phù hợp với môi trường mới.

Tiểu kết chương 3:

Sau công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế - xã hội Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, điều đó cũng ảnh hưởng tới đời sống mọi mặt của các tộc người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó bao gồm cả người Nùng Dín ở Lào Cai nói chung và ở thôn Tùng Lâu (thị trấn Mường Khương, Huyện Mường Khương) nói riêng.

Những biến đổi của đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội của tộc người đã gây ra những tác động mạnh đến hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín ở đây. Sự phát triển kinh tế - xã hội là nguyên nhân dẫn đến sự


biến đổi trong đời sống kinh tế gia đình. Nền kinh tế sản xuất với hiệu quả kinh tế thấp, không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu trong gia đình dẫn đến việc người dân ở đây tìm những phương thức kiếm sống mới bằng cách thoát ly lũy tre làng, tìm các công việc lao động khác phi nông nghiệp như mua bán, làm thuê, … tại các thị trấn, thị xã, thành phố. Từ đó, hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em nhằm phục vụ cho mục đích tái tạo con người lao động cho sản xuất nông nghiệp trong gia đình đã không còn là mục đích chính. Hệ thống giáo dục trường học ngày càng được coi trọng, đồng bào Nùng Dín ở đây coi trường học là con đường để đi thông tới tới cuộc sống mới với những nghề nghiệp lao động khác có hiệu quả kinh tế cao hơn, đáp ứng được những nhu cầu về tiền bạc của gia đình cũng như nâng cao đời sống kinh tế vật chất của gia đình. Những nguyên nhân này khiến cho tri thức địa phương về giáo dục trẻ em không còn được coi trọng như trước đây.

Mặt khác, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung là sự giao thoa văn hóa, tiếp xúc văn hóa ngày càng tăng của đồng bào Nùng Dín với người Kinh ở thị trấn, thành phố - môi trường làm việc và môi trường văn hóa mới của thế hệ trẻ người Nùng Dín. Quá trình giao thoa và tiếp xúc văn hóa này làm ảnh hưởng đến nền văn hóa truyền thống của tộc người. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống như các nghi lễ, các tập quán văn hóa đang bị mai một từ đó làm mất đi những nội dung chính trong hệ thống tri thức địa phương của người Nùng Dín để giáo dục trẻ em.

Cùng với những chính sách phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà nước, những nguyên nhân này gây ra biến đổi mạnh mẽ nhất là bước đầu phá vỡ những quan niệm về tín ngưỡng về tâm linh của tộc người Nùng Dín - là cơ sở của những phong tục tập quán, những giá trị văn hóa truyền thống của cả tộc người. Vì thế, có thể thấy rằng những tác động này đã bước đầu làm lung lay hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín kèm theo nguy cơ về sự mai một một bản sắc văn hóa riêng của một nhóm dân tộc thiểu số trong thời hiện đại.


KẾT LUẬN

1. Người Nùng Dín Lào Cai là một trong tám chi nhánh của dân tộc Nùng ở Việt Nam có dân số xếp thứ 6 các dân tộc tỉnh Lào Cai . Người Nùng Dín Lào Cai cư trú trên địa bàn rộng với trên 40 xã, thị trấn; 148 thôn bản trong đó tập trung chủ yếu ở các huyện: Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai, Bảo Thắng. Địa bàn cư trú của người Nùng Dín thường ở các vùng thung lũng của hai khu vực: vùng thấp và vùng cao – nơi có núi non bao bọc, có cánh đồng đất đai màu mỡ; có nguồn nước sinh hoạt và lao động sản xuất, đường giao thông đi lại thuận lợi cho việc phát triển đời sống kinh tế. Trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, người Nùng Dín đã sáng tạo ra đời sống văn hóa tinh thần phong phú mang dấu ấn và bản sắc riêng. Sự nối tiếp những giá trị văn hóa truyền thống ấy của người Nùng Dín được đảm bảo bằng hệ thống tri thức về giáo dục trẻ em – những người kế thừa huyết thống cũng như văn hóa của tộc người.

2. Hệ thống tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín hàm chứa nhiều nội dung phong phú, phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả.

Về nội dung, tri thức văn hóa dân gian người Nùng Dín đề cập đến nhiều vấn đề như giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và cộng đồng (giáo dục về tình yêu thương ông bà, cha mẹ; công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ; tình cảm anh chị em trong gia đình, dòng họ; giáo dục nề nếp sinh hoạt gia đình,…) giáo dục truyền thống cần cù lao động bằng các việc làm cụ thể từ việc nhỏ sinh hoạt trong gia đình đến các công việc đồng áng trên nương rẫy, ruộng đồng theo từng lứa tuổi, từng giới tính; giáo dục những giá trị văn hóa tinh thần thông qua các nghi lễ gia đình cộng đồng, các phong tục tập quán,….

Về phương pháp giáo dục, người Nùng Dín kết hợp vừa học vừa chơi vừa thực hành những tri thức đã được truyền thụ từ những công việc đơn giản đến phức tạp, theo lứa tuổi và trình độ phát triển nhận thức, thể chất của trẻ em. Giáo dục theo lứa tuổi và theo từng giới tính là phương pháp để trẻ em có thể phát triển hài hòa, phù hợp với sự phát triển của thể chất, tư duy, nhận thức của trẻ.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 30/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí