không có trách nhiệm buộc trẻ phải lựa chọn. Sau khi lựa chọn và trải nghiệm các tình huống này, trẻ nhận được kết quả hoặc hậu quả như thế nào, trẻ sẽ tự rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
- Rèn luyện: là phương pháp giáo dục TTN thông qua thực tiễn sinh hoạt hoạt hàng ngày, các hành động tốt được lặp lại dần hình thành thói quen hành vi tốt. Nhờ đó mà TTN trở nên bền vững.
1.4.5. Hình thức hoạt động giáo dục tính trách nhiệm dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Việc GDTTN cho trẻ có thể tiến hành thông qua nhiều hình thức hoạt động khác nhau ở trường mầm non như học tập, vui chơi, lao động. Trong đó, những hoạt động được diễn ra thường xuyên như học, chơi (trong lớp, ngoài trời) và lao động (tự phục vụ, chăm sóc môi trường) có ưu thế vì được lặp lại hàng ngày.
1.4.5.1. Hoạt động chơi
Ở tuổi 5-6, vui chơi vẫn đang là hoạt động chủ đạo của trẻ em. Do đó, giáo dục TTN cho trẻ thông qua hoạt động chơi là có ưu thế. Mỗi loại trò chơi có thuận lợi nhất định đối với việc giáo dục TTN cho trẻ.
Trò chơi đóng vai có chủ đề: Đặc trưng của trò chơi này là có nội dung chơi mô phỏng lại cuộc sống của trẻ và người lớn xung quanh trẻ. Vì vậy, các tình huống nảy sinh trong khi chơi cũng như các tình huống giả định xảy ra trong trò chơi là điều kiện, cơ hội cho trẻ thực hành TTN. Khi chơi, trẻ đảm nhận những vai trò khác nhau trong đời sống, tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện những trách nhiệm về mặt chức năng do vai trò xã hội đó quy định. Bên cạnh đó trẻ có trách nhiệm khác trong và sau khi chơi: lắng nghe và tôn trọng bạn chơi, cho bạn chơi cùng, thực hiện đúng vai chơi, giúp đỡ bạn trong quá trình chơi, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, dọn dẹp đồ chơi và sắp xếp gọn gàng sau khi chơi xong.
Trò chơi có luật (trò chơi học tập, trò chơi vận động): Đây là loại trò chơi có nhiệm vụ nhận thức hoặc nhiệm vụ vận động rõ ràng, do người lớn đặt ra nhằm đạt được mục đích giáo dục. Cấu trúc của trò chơi gồm có: Tên trò chơi, nhiệm vụ chơi, hành động chơi, luật chơi, và đồ dùng đồ chơi. Do có luật chơi nghiêm ngặt, nhiệm vụ chơi khó khăn nên loại trò chơi này đòi hỏi trẻ phải tuân theo các quy tắc của trò chơi và nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi để giải quyết nhiệm vụ chơi, chấp hành kỉ luật và có tinh thần trách nhiệm chung với cả nhóm/đội.
1.4.5.2. Hoạt động học
Giai đoạn 5-6 tuổi là giai đoạn chuẩn bị cho trẻ vào trường tiểu học, do đó, hoạt động học tập đã diễn ra với tần suất nhiều hơn, khả năng chú ý, ghi nhớ và tự kiểm soát cho phép trẻ tham gia hoạt động học tập kéo dài thời gian hơn mà vẫn
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên Cứu Về Giáo Dục Tính Trách Nhiệm Dựa Trên Quyền Trẻ Em
- Sự Hình Thành Tính Trách Nhiệm Của Trẻ 5-6 Tuổi
- Mối Quan Hệ Giữa Quyền Và Trách Nhiệm Của Trẻ Em
- Thực Trạng Giáo Dục Tính Trách Nhiệm Dựa Trên Quyền Trẻ Em Cho Trẻ 5-6 Tuổi Ở Trường Mầm Non
- Tiêu Chí Đánh Giá Mức Độ Biểu Hiện Ttn Của Trẻ 5-6 Tuổi
- Ý Kiến Gvmn Về Nội Dung Giáo Dục Ttn Cho Trẻ 5-6 Tuổi
Xem toàn bộ 279 trang tài liệu này.
duy trì được hứng thú. Học là một hoạt động trí tuệ mà động cơ nằm ngay trong kết quả học tập. Theo nghiên cứu của G.Allan, trách nhiệm đối với học tập của học sinh thể hiện ở định hướng học tập; sự tham gia tích cực vào học tập; tự chủ và kiểm soát việc học; sáng kiến; quản lý tài nguyên học tập; hợp tác và kiểm soát hành vi trong lớp học [60]. Đối với trẻ 5-6 tuổi, có thể xem xét tác động của hoạt động học tập đối với việc tăng cường TTN của trẻ thông qua định hướng về nhiệm vụ học tập, sự tham gia tích cực vào học tập, tự kiểm soát hành vi học tập và sự sáng tạo ở các điểm cơ bản sau: hoạt động học tập luôn có nhiệm vụ rõ ràng giúp trẻ xác định được nhiệm vụ cần phải thực hiện; trẻ có cơ hội thể hiện sự tham gia một cách tích cực và trách nhiệm, thể hiện thái độ thích thú, sẵn sàng nhận nhiệm vụ và nỗ lực để giải quyết nhiệm vụ; khi tham gia trẻ phải thực hiện tốt các nội quy học tập như lắng nghe cô giáo và các bạn, không tranh giành nhau trong giờ học, biết giúp đỡ bạn và cùng nhau hoàn thành; trẻ thể hiện sự say mê, sáng tạo, tích cực đưa ra các ý kiến, ý tưởng khi tham gia quá trình học tập.
1.4.5.3. Hoạt động lao động
Lao động là nguồn gốc vô tận của mọi giá trị [22]. Quá trình trưởng thành của mỗi con người cần tới lao động, bởi lẽ lao động phải dùng tới đôi bàn tay, các dây thần kinh liên hệ cơ bàn tay, cơ ngón tay với đại não, thông qua đó sẽ kích thích quá trình phát triển và hoàn thiện của các tế bào thần kinh, nhờ đó phát triển trí tuệ và các phẩm chất tâm lý [37, tr180-181]. Biết lao động ngay từ nhỏ sẽ bồi dưỡng cho trẻ tình yêu lao động, tinh thần hăng say, không ngại khắc phục khó khăn, dám nhận nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về công việc lao động mình đã nhận.
Có các cách phân loại hình thức lao động khác nhau của trẻ em. Theo Đào Thanh Âm và cộng sự, có bốn loại lao động của trẻ em: lao động tự phục vụ, lao động trong sinh hoạt, lao động trong thiên nhiên và lao động thủ công. Trong khi đó, Lê Ánh Tuyết và cộng sự xác định ba dạng lao động: lao động tự phục vụ, lao động trực nhật, và lao động tập thể [39]. Dựa trên loại trách nhiệm của trẻ, luận án phân chia hoạt động lao động thành ba dạng: lao động chăm sóc bản thân; lao động chăm sóc, giúp đỡ người khác; lao động chăm sóc môi trường (bao gồm trực nhật lớp học và chăm sóc thiên nhiên). Lao động chăm sóc bản thân hay lao động tự phục vụ, là hình thức lao động nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, nhằm chăm sóc cho bản thân mình như tự ăn, tự mặc, tự ngủ; gấp quần áo, dọn dẹp phòng, tham gia nấu ăn, làm bánh. Lao động chăm sóc, giúp đỡ người khác là hình thức lao động hướng tới thỏa mãn nhu cầu của người khác trong trường hợp người đó không có khả năng tự làm được hoặc nếu không được giúp đỡ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tiến độ hoàn thành công việc, như rót nước, đấm lưng, lấy đồ, đưa đồ, kê bàn ghế. Lao động
chăm sóc môi trường là hình thức lao động hướng tới đối tượng trong môi trường sống của trẻ, nhằm giúp cho đối tượng đó ở trong trạng thái tốt nhất, như chăm sóc cây cối, con vật, quét lá, bắt sâu, nhỏ cỏ; lau giá đồ chơi, lau bàn ghế, phơi khăn, rửa cốc. Mỗi loại lao động đều mang tới cơ hội để trẻ được làm việc và thể hiện trách nhiệm của mình với bản thân, với người khác và với môi trường.
Ngoài ra, có thể tận dụng các hình thức hoạt động khác ở trường mầm non để GDTTN cho trẻ như tham quan, lễ hội, giao lưu. Tuy các hoạt động này không diễn ra thường xuyên nhưng cũng có thể sử dụng để tạo các cơ hội GDTTN cho trẻ với bản thân, với người khác và với môi trường trong phạm vi rộng hơn.
Như vậy có thể thấy hình thức hoạt động giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi khá phong phú và mang tính mở để GV có thể linh hoạt, tùy thuộc vào mục đích, nội dung, phương pháp, đối tượng giáo dục để lựa chọn một hay một số hình thức kết hợp trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục trách nhiệm cho trẻ 5-6 tuổi đạt hiệu quả. Trong quá trình tổ chức các hoạt động này cần thiết có sự phối hợp giữa hình thức rõ ràng và hình thức tiềm ẩn nhằm giáo dục trách nhiệm cho trẻ theo các qui mô tổ chức khác nhau từ cấp độ tập thể, nhóm đến cá nhân trẻ.
1.4.6. Đánh giá kết quả giáo dục tính trách nhiệm dựa trên Quyền trẻ em cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Đánh giá là một trong những khâu quan trọng nhưng không dễ dàng trong quá trình giáo dục. Đánh giá kết quả giáo dục TTN đỏi hỏi trước hết phải xác định tiêu chí đánh giá, sau đó phải phối hợp các phương pháp đánh giá khác nhau như quan sát, phỏng vấn, sử dụng bài tập khảo sát.
Về tiêu chí đánh giá, có một số tác giả đã nghiên cứu và xác định các tiêu chí đánh giá TTN ở các khía cạnh khác nhau. Sartre (1992) nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân với bốn tiêu chí: khả năng lựa chọn, nhận thức về bản thân, sự quyết đoán và khả năng dự đoán kết quả hành động [71, tr.2]. Katherine Covell & R. Brian Howe (2007), lựa chọn tiêu chí đánh giá hiểu biết về Quyền và Trách nhiệm của trẻ em bao gồm các nội dung: giúp đỡ và chăm sóc người khác, cư xử tốt, chăm sóc mọi vật xung quanh, lắng nghe và học hỏi, biết liên kết đến quyền. Hành động theo cách có tránh nhiệm được Geert ten Dam và cộng sự (2011) xác định các tiêu chí: về kiến thức, biết các quy tắc (quy định của pháp luật hoặc quy tắc bất thành văn trong các mối quan hệ xã hội); về thái độ, muốn duy trì công bằng xã hội, sẵn sàng tham gia các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ, không muốn gây hại cho người khác hoặc môi trường do hành vi của mình; về kĩ năng, có thể chọn được một vị trí xã hội; và về phản ánh, suy nghĩ về xung đột lợi ích, gắn kết xã hội, quá trình xã hội, quá trình hoạt động nhóm (ví dụ: tham gia vào hoặc không tham gia) và đóng góp của riêng mình cho công bằng xã hội.
Về phương pháp đánh giá, để đánh giá nhận thức trách nhiệm của trẻ, có thể sử dụng phỏng vấn (Katherine Covell & R. Brian Howe, 2007), phiếu hỏi PH, GV và trẻ (Gary M. Allan, 2006) và Lê Thị Hoài Lan (2018). Để đánh giá hành động và thái độ trách nhiệm của trẻ, phương pháp ưu thế là quan sát trẻ và bài tập tình huống.
Có thể thấy rằng, tiêu chí đánh giá TTN cho trẻ 5-6 tuổi cần bao gồm các mặt nhận thức, thái độ và hành vi, và có những biểu hiện cụ thể để dễ dàng, thuận tiện cho việc đánh giá. Phương pháp đánh giá chủ yếu thông qua quan sát và phỏng vấn trẻ. Dựa trên biểu hiện TTN của trẻ 5-6 tuổi đã được trình bày ở trên, luận án xác định ba tiêu chí đánh giá TTN của trẻ 5-6 tuổi như sau:
TC1: Nhận thức về trách nhiệm
CS 1.1: Nêu được những việc cần làm hàng ngày. CS 1.2: Giải thích được tại sao cần phải làm việc đó.
CS 1.3: Hiểu mọi người phải tự chịu hậu quả về việc mình làm.
TC2: Hành động có trách nhiệm:
CS 2.1: Luôn thực hiện các việc cần làm hàng ngày CS 2.2: Hoàn thành các công việc cần làm hàng ngày CS 2.3: Đánh giá đúng kết quả và tự nhận hậu quả
TC3: Thái độ có trách nhiệm:
CS 3.1: Tự giác thực hiện việc cần làm hàng ngày;
CS 3.2: Kiên trì, nỗ lực để hoàn thành tốt việc đang làm;
CS 3.3: Công bằng khi đánh giá và chủ động nhận lỗi, sửa lỗi.
Những tiêu chí này sẽ giúp cho việc đánh giá mức độ biểu hiện TTN của trẻ 5- 6 tuổi, từ đó đề xuất những biện pháp giáo dục TTN phù hợp.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục tính trách nhiệm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Theo A.Bandura, hành vi xuất hiện là kết quả của sự tương tác giữa môi trường và cá nhân. Các yếu tố cá nhân và môi trường tác động lẫn nhau và ảnh hưởng đến hành vi của trẻ em. Ở trường mầm non, trong quá trình giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi, ngoài hai yếu tố trên còn phải xem xét đến vai trò của các lực lượng giáo dục (giáo viên, cha mẹ, và cán bộ quản lý trường mầm non) với tư cách là nhà giáo dục, định hướng cho sự hình thành TTN ở trẻ em.
1.5.1. Đặc điểm cá nhân trẻ
Đặc điểm cá nhân trẻ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hình thành TTN. Một số nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng sự sẵn lòng chấp nhận một mức độ trách nhiệm cao của học sinh không phải là giả định phổ biến. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự
khác biệt TTN cá nhân học sinh là Cam kết và sẵn sàng, sự trưởng thành (phát triển sự hiểu biết về các vấn đề như quyền, trách nhiệm, hậu quả, sự phù hợp của hành động và sự tự điều chỉnh hành vi), sự nỗ lực, và có thể là giới tính [60]. Theo các nhà nghiên cứu, tiến trình phát triển TTN liên quan đến sự chuyển dần từ quy định bên ngoài (tức là, quy định từ phía người khác, quy định chung) sang quy định nội bộ (tức là, tự bản thân).
Sự hình thành TTN của trẻ 5-6 tuổi có liên quan đến các yếu tố tâm lí-xã hội sau đây:
- Nhận thức: Nhận thức chi phối quan niệm, niềm tin của trẻ, là điều kiện để trẻ xem xét lại quan niệm, niềm tin của chính mình, từ đó làm nền tảng để đi đến thay đổi quan niệm, niềm tin của bản thân theo hướng gần với sự thật hơn. Do vậy, quá trình giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi cũng chịu ảnh hưởng bởi khả năng nhận thức của trẻ, nếu khả năng nhận thức ban đầu của trẻ tốt thì quá trình giáo dục TTN của trẻ sẽ thuận lợi và có kết quả cao hơn.
- Nhu cầu: Trẻ có nhu cầu, hứng thú khác nhau trong các hoạt động và mức độ của mỗi nhu cầu của trẻ cũng khác nhau. Điều này chi phối cách thức và thái độ trẻ tham gia hoạt động cũng như thực hiện các nhiệm vụ trong hoạt động. Trên cơ sở này, các hoạt động giáo dục TTN sẽ phải quan tâm đến nhu cầu của trẻ để có tác động phù hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu.
- Ý chí, niềm tin: Ý chí, nỗ lực thực hiện công việc tốt nhất; niềm tin vào bản thân có thể làm được và làm tốt công việc hay ngược lại sẽ ảnh hưởng đến quá trình giáo dục TTN cho trẻ, là động lực thúc đẩy hoặc cản trở việc thực hiện trách nhiệm của trẻ em.
- Xúc cảm, tình cảm: Xúc cảm, tình cảm là một loại sức mạnh tâm lý. Chúng ảnh hưởng rất sâu sắc tới một con người, có thể khuyến khích con người tích cực hướng về phía trước nhưng cũng có thể ăn mòn ý chí, khiến con người trở nên yếu đuối. Chẳng hạn, niềm vui thích, hưng phấn, mong muốn được hoạt động sẽ là kích thích mạnh mẽ để trẻ bước vào hoạt động. Nhưng nếu trẻ cảm thấy thỏa mãn, hài lòng với những niềm vui không lành mạnh như sự nhạt nhẽo, vô vị, lười biếng sẽ khiến trẻ không muốn làm gì [37, tr.153-154].
- Vị trí của trẻ trong gia đình: Vị trí xã hội có vai trò định hướng cho hành động của trẻ phù hợp với chuẩn mực hành vi mà vị trí xã hội quy định. Trẻ là con phải thực hiện trách nhiệm giúp đỡ, chăm sóc cha mẹ; trẻ là anh phải có trách nhiệm chăm sóc em, chơi với em, trẻ là bạn thì phải giúp đỡ bạn bè của mình.
1.5.2. Môi trường
Môi trường là một hệ thống sống động và luôn thay đổi. Hơn cả không gian vật lý, nó bao gồm cả cấu trúc thời gian. Nó điều khiển cách cá nhân cảm thấy, suy
nghĩ và hành xử; và nó ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Môi trường giáo dục trẻ ở trường mầm non bao gồm: môi trường vật chất và môi trường tâm lý, cả hai môi trường này đều có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ em nói chung và sự hình thành TTN cho trẻ nói riêng.
1.5.2.1. Môi trường vật chất
Môi trường vật chất trong trường mầm non bao gồm các yếu tố vật lý (không khí, ánh sáng, màu sắc, tiếng ồn) và các đối tượng, phương tiện, đồ dùng, đồ chơi được bày trí trong không gian lớp học và trường học. Môi trường vật chất đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động văn hóa diễn ra bên trong nó. Các chuyên gia nghiên cứu về mối quan hệ giữa môi trường và hành vi đã ghi nhận những lo ngại đặc biệt về các tính năng thiết kế trong môi trường trường học tác động đến trẻ nhỏ, như giảm chú ý, ảnh hưởng đến thị giác, tiếng ồn ảnh hưởng đến thính giác [95]. Cho đến tuổi mẫu giáo, trẻ em đã có khả năng hoạt động tập trung hơn trong môi trường xung quanh, chỉ quan tâm, chú ý đến những đối tượng có liên quan trực tiếp đến hoạt động. Khi đó, môi trường có chức năng định hướng hoạt động cho trẻ rõ ràng hơn [34]. Nhiều khía cạnh của môi trường vật chất có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, sở thích, chú ý, hiệu suất học tập, vui chơi của trẻ em. Trong giáo dục TTN cho trẻ, môi trường vật chất được coi là điều kiện, phương tiện để thực hiện quá trình giáo dục, đòi hỏi sự an toàn, sự đa dạng và đáp ứng được nhu cầu hoạt động của trẻ thì mới mang lại kết quả.
1.5.2.2. Môi trường tâm lý
Môi trường tâm lý xã hội bao gồm các yếu tố tâm lý và xã hội có ảnh hưởng đối với sự hài lòng, sức khỏe và khả năng hoạt động của trẻ tại nơi học tập [33]. Trong các yếu tố này, các yếu tố tâm lý như bầu không khí của trường học và gia đình, giao tiếp của giáo viên/cha mẹ với trẻ là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp. Ngoài ra, các yếu tố tiềm ẩn khác như các chuẩn mực giá trị trong xã hội, phong tục, quan niệm truyền thống; điều kiện kinh tế xã hội, phương tiện thông tin truyền thông cũng ảnh hưởng đến nhận thức của gia đình và nhà trường về việc giáo dục TTN cho trẻ em. Ở trường mầm non, môi trường tâm lý xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc, tinh thần của trẻ em. Trong phạm vi gia đình, môi trường tâm lý xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc của một cá nhân trong quá trình phát triển, và cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển sau này của cá nhân đó như gây ra những khó khăn về cảm xúc và hành vi. Do vậy, giáo dục TTN cho trẻ phải quan tâm đến môi trường tâm lý lành mạnh, an toàn, bình đẳng và tôn trọng trẻ em.
1.5.3. Các lực lượng giáo dục
1.5.3.1. Giáo viên
Trong quá trình giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non, giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ biểu hiện trách nhiệm của trẻ, thể hiện như sau:
Thứ nhất, giáo viên là hình mẫu lý tưởng cho trẻ bắt chước theo. Trong mắt trẻ thơ, giáo viên luôn đúng. Vì vậy, hành động, lời nói, tác phong của giáo viên sẽ là hình mẫu cho trẻ. Giáo viên gọn gàng ngăn nắp, trẻ cũng gọn gàng ngăn nắp. Giáo viên làm việc có giờ giấc, giờ nào việc nấy, lập tức trẻ cũng vào nề nếp, tuân theo trật tự. Giáo viên giữ lời hứa với trẻ, thì trẻ sẽ tin tưởng và cũng cố gắng giữ lời hứa của mình.
Thứ hai, hiểu biết của giáo viên về quyền và trách nhiệm của bản thân, về quyền và trách nhiệm của trẻ sẽ hướng dẫn hành động của họ. Nếu giáo viên cho rằng trách nhiệm của trẻ luôn phải nghe lời cô thì họ sẽ áp đặt và luôn đưa ra những mệnh lệnh. Nếu giáo viên chưa có hiểu biết về sự công bằng, bình đẳng thì việc thực hiện công bằng trong lớp của họ chưa thể là thực chất.
Thứ ba, các biện pháp giáo dục của giáo viên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến TTN của trẻ. Biện pháp có tính hợp lý, phù hợp với đặc điểm tâm lý cá nhân trẻ, dựa trên tôn trọng trẻ em, tạo nhiều cơ hội cho trẻ tham gia hay không sẽ mang lại hệ quả tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình giáo dục TTN cho trẻ.
1.5.3.2. Cha mẹ
Gia đình là nơi trẻ sinh ra và lớn lên cùng với những người thân yêu ruột thịt. Đây là nơi trẻ có nhiều cơ hội được trải nghiệm và hình thành biểu tượng về hành vi trách nhiệm đối với mọi người và mọi vật trong gia đình. Trong đó, cha mẹ là người có ảnh hưởng quan trọng nhất đến TTN của trẻ. Theo Keith và cộng sự (1999) những ảnh hưởng của cha mẹ bao gồm: sự suy giảm chất lượng mối quan hệ cha mẹ và con cái; thiếu sự hỗ trợ đối với giáo viên, việc học của trẻ ở trường và trường học nói chung; tăng ảnh hưởng của ti vi và truyền thông do sự đáp ứng để tạo sự hài lòng ngay lập tức của trẻ; sự suy giảm chung trong tiêu chuẩn đạo đức và giá trị của xã hội.
Phân tích ảnh hưởng của cha mẹ đến TTN của trẻ 5-6 tuổi cho thấy cần quan tâm đến những yếu tố sau:
- Hành vi của cha mẹ: Cha mẹ được coi là những mẫu hành vi có trách nhiệm (hoặc không có trách nhiệm) đóng vai trò ảnh hưởng lớn đến tính trách nhiệm của trẻ. Trong gia đình, mỗi người làm một việc, ai cũng có trách nhiệm riêng, đồng thời cũng có trách nhiệm cùng nhau xây dựng cho gia đình luôn ấm cúng. Mỗi gia đình có sự phân công lao động khác nhau cho mỗi thành viên nhưng đều sẽ là môi trường tốt
để hình thành và duy trì hành vi trách nhiệm của trẻ nếu mỗi người lớn trong nhà luôn thể hiện có trách nhiệm trong lời nói và hành vi của mình.
- Các biện pháp giáo dục của cha mẹ: Các biện pháp giáo dục tích cực như giao nhiệm vụ, trao quyền lựa chọn cho trẻ, khuyến khích động viên, sử dụng diễn ngôn về quyền và trách nhiệm, sẽ đem lại những hệ quả tích cực đối với giáo dục TTN cho trẻ. Ngược lại, những biện pháp mang tính áp đặt, dùng đòn roi hay hình phạt sẽ ít mang lại kết quả.
- Nếp sống, thói quen và những quy tắc trong gia đình: Nhà cửa ngăn nắp, quần áo gọn gàng, quy định về chỗ để đồ dùng đồ chơi của trẻ (giá để dép, rổ đựng đồ chơi, bàn học, tủ quần áo) sẽ định hướng cho hành vi của trẻ có nề nếp. Trong gia đình cũng nảy sinh nhiều tình huống đòi hỏi mọi người phải cùng nhau suy xét, phân tích và tìm cách giải quyết vấn đề chung, tạo nhiều cơ hội cho trẻ được học tập cách suy nghĩ và ra quyết định có trách nhiệm với mình và mọi người xung quanh.
1.5.3.3. Cán bộ quản lý
Ở trường mầm non, sự tác động của thể chế được thể hiện trực tiếp qua vai trò của quản lý nhà trường (Bacon, 1991). Nếu quản lý nhà trường có tư tưởng tiến bộ, trao quyền cho giáo viên và có trách nhiệm, công bằng trong việc kiểm tra, đánh giá giáo viên và trẻ, sẽ thúc đẩy tính tự chủ, sáng tạo và có trách nhiệm với công việc của giáo viên, từ đó tác động tới trẻ em, và ngược lại. Mặt khác quản lý nhà trường cũng chịu sự kiểm tra đánh giá từ quản lý cấp trên (phòng giáo dục, sở giáo dục, Vụ GDMN, Bộ GD-ĐT), do đó nếu họ không vững chuyên môn, dám nghĩ dám làm, dám đổi mới và bảo vệ những nỗ lực cải thiện công tác chăm sóc giáo dục trẻ và cải tổ quản lý hành chính thì các giáo viên của họ cũng sẽ thực hiện một cách rập khuôn, máy móc, không dám thay đổi để trao quyền cho trẻ em và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Tóm lại, giáo dục TTN cho trẻ 5-6 tuổi phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm tâm lý cá nhân trẻ, môi trường giáo dục và các tác động giáo dục từ phía người lớn. Do vậy quá trình giáo dục TTN đòi hỏi các nhà giáo dục cần tìm hiểu nhu cầu, tình cảm, khả năng nhận thức của trẻ cũng như hoàn cảnh gia đình của trẻ. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường, trong đó, ảnh hưởng của phụ huynh trong việc hình thành giá trị có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với trường học. Điều này củng cố tầm quan trọng của việc phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh ở tất cả các giai đoạn công việc của nhà trường trong đó có việc giáo dục TTN cho trẻ em.