phạm tội với nạn nhân, bởi vì có trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm nhưng thai nhi là kết quả của việc giao cấu giữa nạn nhân với người khác không phải là kết quả của lần bị hiếp dâm thì không thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này cho người phạm tội (việc xác định nạn nhân có thai hay không phải có kết quả giám định của cơ quan y tế chuyên môn). Nhưng trên thực tế đôi khi các cơ quan tiến hành tố tụng lại bỏ qua việc xác định này vì hành vi hiếp dâm nạn nhân trùng hợp cùng thời điểm nạn nhân mang thai. Quy định tình tiết này là tình tiết cần thiết nhằm răng đe nghiêm khắc hơn đối với những người phạm tội và mang tính phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Vì một đứa trẻ sinh ra từ những hành vi phạm tội này đều bị khiếm khuyết về gia đình, hạn chế về sức khỏe (trẻ không có cha, trẻ không được phát triển đầy đủ do mẹ chưa phát triển đầy đủ về thể chất), nếu gia đình nạn nhân là những người có hoàn cảnh khó khăn thì lại trở thành một gánh nặng cho gia đình và cho xã hội.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%:
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã sửa đổi từ ngữ tỷ lệ thương tật thành tỷ lệ tổn thương cơ thể là rất phù hợp, thì đây là một quy định rất phù hợp với thực tiễn và hậu quả đến từ lỗi vô ý của người phạm tội trong quá trình thực hiện hành vi gây ra thương tích cho nạn nhân, tỷ lệ tổn thương cơ thể là tỷ lệ mất sức lao động ( tỷ lệ tổn thương cơ thể cần phải căn cứ vào kết quả pháp y của Hội đồng giám định pháp y kết luận). Nếu lỗi gây ra thương tích, gây tổn hại sức khỏe của nạn nhân là lỗi cố ý, người phạm tội còn bị truy tố thêm tội danh Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác tại Điều 134 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Gây rối loạn tâm thần và rối loạn hành vi là các biểu hiện trầm cảm, sang chấn tâm lý sau khi bị xâm hại, biểu hiện bệnh trầm cảm thường thấy là nạn nhân thường có tâm trạng buồn bã, có hoặc không kèm theo triệu chứng hay khóc,
không có động lực, giảm hứng thú trong mọi việc kể cả những hoạt động nằm trong sở thích trước đây. Nạn nhân bị trầm cảm sẽ ảnh hưởng đến cảm giác, suy nghĩ và hành xử, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, thường xuyên nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự hủy hoại bản thân và có thể tự sát. Nạn nhân bị rối loạn tâm thần và rối loại hành vi luôn có những hành vi tiêu cực, không tuân theo các quy định, quy tắc xã hội dẫn đến việc hòa nhập với xã hội trở nên khó khăn. Do đó, người phạm tội gây ra hậu quả này đối với nạn nhân cần được áp dụng khung hình phạt tăng nặng là phù hợp.
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh:
Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh là điều kiện bắt buộc trong quy định tại trường hợp này, theo quy định tại Điều 98 Luật trẻ em 2016 thì cha, mẹ, người giám hộ, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em, ngoài ra thì Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng quy định về nghĩa vụ của cha mẹ, nhà trường và các cơ quan tổ chức xã hội khác có trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ em, nên người phạm tội ở đây được xem là người đang trực tiếp có nghĩa vụ đối với nạn nhân. Ví dụ: quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con cái, cha dượng với con riêng của vợ, chú bác với cháu mà mình đang nuôi dưỡng, bác sĩ với bệnh nhân, giáo viên với học sinh, người giám hộ với trẻ mồ côi…. Tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội lợi dụng tình cảnh nạn nhân đang phải sống phụ thuộc hay điều kiện thuận lợi trong công việc và mối quan hệ xã hội để có hành vi xâm hại tình dục đối với nạn nhân.
- Phạm tội 02 lần trở lên:
Dấu hiệu phạm tội 02 lần trở lên thì đây là điểm mới của BLHS 2015, trước đây BLHS 1999 có quy định tương ứng là “phạm tội nhiều lần”. Mặc dù chưa có văn bản nào quy định chính thức về khái niệm thế nào là “phạm tội
nhiều lần” nhưng thông qua các văn bản hướng dẫn thì có nhận thức chung phạm tội nhiều lần tức là “phạm tội 02 lần trở lên” nên sự thay đổi trong quy định của BLHS 2015 là rất khoa học, theo đó người thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên, mà nếu tách riêng mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội ra thì đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 142 BLHS 2015 (định khung cơ bản) và chưa lần nào bị đưa ra xét xử không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình phạt thì sẽ bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên.
- Đối với 02 người trở lên:
Có thể bạn quan tâm!
- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng - 1
- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng - 2
- Dấu Hiệu Định Khung Của Tội Hiếp Dâm Người Dưới 16 Tuổi
- Phân Biệt Tội Hiếp Dâm Người Dưới 16 Tuổi Với Tội Giao Cấu Hoặc Thực Hiện Hành Vi Quan Hệ Tình Dục Khác Với Người Từ Đủ 13 Tuổi Đến Dưới 16
- Phân Biệt Tội Hiếp Dâm Người Dưới 16 Tuổi Với Tội Sử Dụng Người Dưới 16 Tuổi Vào Mục Đích Khiêu Dâm
- Thực Tiễn Định Tội Danh Tội Hiếp Dâm Người Dưới 16 Tuổi
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Dấu hiệu đối với 02 người trở lên cũng giống như tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” có thể hiểu phạm tội đối với 02 người trở lên theo đó người thực hiện tội phạm đã phạm cùng một tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với từ 02 người trở lên, mà nếu tách riêng mỗi lần đó với từng người một thì đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 (khung cơ bản) của Điều luật đó (tội phạm đó) và chưa lần nào bị đưa ra xét xử, được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình phạt.
- Tái phạm nguy hiểm:
Người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng như những loại tội phạm khác nếu thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự nặng hơn vì nhằm mục đích xử lý những người phạm tội không
chịu phục thiện để sửa chữa lỗi lầm đã gây ra, không biết ăn năn hối cải, vẫn ngoan cố, có ý thức coi thường pháp luật là sự suy thoái nặng về đạo đức, có trường hợp lần phạm tội sau sẽ gây hậu quả nghiêm trọng hơn lần phạm tội trước, nên cần thiết áp dụng hình phạt tăng nặng so với khung cơ bản nhằm có thời gian nhiều hơn để giáo dục đối với người phạm tội.
Dấu hiệu thuộc khung tăng nặng thứ hai:
Hành vi thuộc khung tăng nặng thứ hai quy định tại khoản 3 Điều 142 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm các dấu hiệu:
- Có tổ chức:
Hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi có tổ chức là sự kết cấu chặt chẽ giữa các đồng phạm với nhau, có phân công vai trò cụ thể, có kế hoạch tổ chức thực hiện rò ràng, có đầy đủ dấu hiệu chủ quan và khách quan, vừa thể hiện mức độ liên kết về mặt chủ quan, vừa thể hiện mức độ phân hóa vai trò, nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan của những người đồng phạm. Khái niệm đồng phạm được quy định tại Điều 17 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với định nghĩa là có 02 người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nhưng đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ hơn gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
- Nhiều người hiếp một người:
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có tình tiết định khung tăng nặng nhiều người hiếp một người thì đây là trường hợp nhiều người cùng thực hiện hành vi hiếp dâm một người, dù có tổ chức hay không có tổ chức mà nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác đối với nạn nhân đều phải bị áp dụng tình tiết này.
- Phạm tội đối với người dưới 10 tuổi:
Dấu hiệu phạm tội đối với người dưới 10 tuổi đây là tình tiết mới được bổ sung trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được tách một phần từ khoản 3 điều 112 BLHS 2015, có khung hình phạt từ 20 năm tù, chung
thân hoặc tử hình. việc bổ sung tình tiết này là cần thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn xã hội hiện nay, tình tiết này được pháp luật quy định như là một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không cần hội tụ đủ các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm thông thường, thể hiện rò sự phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 10 tuổi. Phù hợp với thực tiễn xét xử vì có trường hợp nếu không có quy định này thì những tội phạm thực hiện hành vi với trẻ em dưới 10 tuổi mà chỉ xử phạt từ 12 đến 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình thì không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên:
Đối với trường hợp này tương tự với trường hợp tại hành vi thuộc khung tăng nặng thứ nhất đã nói ở trên tại khoản 2 Điều 142 BLHS 2015 nhưng chỉ khác nhau ở chổ tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân phải từ 61% trở lên.
- Giây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên:
Đây là trường hợp hậu quả này bắt buộc phải xảy ra thì mới áp dụng, hành vi phạm tội làm cho nạn nhân bị tâm thần và có những biểu hiện hành vi không ổn định, diễn biến tâm lý thất thường với tỷ lệ nhất định từ 46% trở lên và xác định tỷ lệ % phải do cơ quan giám định pháp y kết luận.
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội:
Dấu hiệu biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội là nếu người phạm tội trước đó không biết mình nhiễm HIV mặc dù thực tế sau khi phạm tội xét nghiệm là có bị nhiễm thì không áp dụng tình tiết này, đây là một tình tiết cũng rất khó trong việc xác định là người phạm tội biết hay không biết nếu người phạm tội cố tình che dấu nếu không có chứng cứ chứng minh việc người phạm tội biết được mình bị nhiễm HIV.
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát:
Người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà dẫn đến nạn nhân chết hoặc tự sát là trường hợp nạn nhân chết do bị hành vi hiếp dâm gây ra thì áp dụng các tình tiết định tội này, nếu nạn nhân chết không phải từ nguyên nhân do bị hiếp dâm gây ra mà vì một nguyên nhân khác thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm và tội tương ứng với hành vi làm nạn nhân chết. Trường hợp nạn nhân bị tội phạm làm cho bất tỉnh, sau đó thực hiện hành vi giao cấu rồi bỏ mặc nạn nhân dẫn đến nạn nhân chết thì trường hợp này không phải thuộc tình tiết làm nạn nhân chết mà là Tội giết người và Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Một người tự sát thì có nhiều nguyên nhân nhưng nếu vì bị hiếp dâm mà nạn nhân tự sát thì người hiếp dâm nạn nhân sẽ phạm tội thuộc trường hợp hiếp dâm người dưới 16 tuổi với tình tiết định khung tăng nặng làm cho nạn nhân tự sát. Tuy nhiên xác định lý do tự sát cũng không phải dễ dàng, ngoài ra chỉ cần xác định lý do tự sát là có phải do bị hiếp dâm hay không, còn việc nạn nhân chết hay không chết, không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định tình tiết trong trường hợp này. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt thì cơ quan tiến hành tố tụng đều xem xét nếu nạn nhân tự sát mà chết thì áp dụng mức hình phạt cao hơn tự sát mà không chết.
1.2.3. Hình phạt đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bô sung năm 2017) quy định về mức hình phạt của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được chia thành bốn khung hình phạt, cụ thể như sau:
Khung hình phạt thứ nhất quy định tại khoản 1 Điều 142 BLHS 2015 là người nào thực hiện các hành vi như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái ý muốn của nạn nhân và người nào thực hiện các hành vi
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 14 tuổi thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Đây là khung hình phạt thấp nhất đối với loại tội phạm này.
Khung hình phạt thứ hai quy định tại khoản 2 Điều 142 BLHS 2015 là khung hình phạt tăng nặng đối với người nào thực hiện các hành vi như tại khoản 1 và thuộc một trong các trường hợp như: Có tính chất loạn luân; Làm nạn nhân có thai; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Khung hình phạt thứ ba quy định tại khoản 3 Điều 142 BLHS 2015 là khung hình phạt cao nhất đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, được quy định cụ thể là người nào thực hiện các hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 điều này và thuộc các trường hợp như: Có tổ chức; Nhiều người hiếp một người; Phạm tội đối với người dưới 10 tuổi; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát thì phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung hình phạt này rất tương xứng với hành vi phạm tội mà tội phạm gây ra thuộc các trường hợp quy định theo các điểm trong khoản 3 Điều 142 BLHS 2015.
Khung 4 thứ tư quy định tại khoản 4 Điều 142 BLHS 2015 Được quy đình là hành phạt bổ sung ngoài việc bị xử lý theo một trong các hình phạt chính trên, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề (ví dụ như bác sĩ có hành vi phạm tội đối với bệnh nhân, giáo viên với học sinh, v..v…) hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.3 Phân biệt Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác mà nạn nhân là người dưới 16 tuổi
Như đã phân tích ở trên, dấu hiệu pháp lý trặc trưng của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi xâm hại tình dục một cách cố ý đối với nạn nhân bằng các cách thức như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ, hoặc hành vi giao cấu, hành vi quan hệ tình dục khác đối với người dưới 13 tuổi (dù có trái ý muốn hay không trái ý muốn của nạn nhân). Đó cũng là dấu hiệu pháp lý đặc trưng để làm căn cứ phân biệt với các tội phạm về tình dục khác mà nạn nhân là cũng người dưới 16 tuổi, được quy định tại các Điều 144, Điều 145, Điều 146 và Điều 147 của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Do đó, để phân biệt Tội hiếp dâm người dưới 16 đối với các tội xâm hại tình dục khác chúng ta cần nhận biết dấu hiệu pháp lý đặc trưng của từng loại tội phạm.
1.3.1 Phân biệt Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Cả hai hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi và cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đều là hành vi xâm phạm đến quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em dưới 16 tuổi. Các hành vi này đều gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của nạn nhân. Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi của mình là trái pháp luật, biết hành vi đó là xâm hại nhân phẩm, danh dự của nạn nhân nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm đạt mục đích thỏa mãn bản thân của người phạm tội. Hậu quả của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đều là những thiệt hại gây ra cho danh dự, nhân phẩm con người thể hiện