Mối Quan Hệ Giữa Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự Với Một Số Nguyên Tắc Cơ Bản Trong Luật Tố Tụng

ra yêu cầu đổi mới việc tổ chức phiên tòa theo hướng tranh tụng mạnh mẽ hơn, trong đó nhấn mạnh việc xác định rò hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, xem đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự Việt Nam nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Vì vậy, việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự phải phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp, phù hợp với mô hình tố tụng thiên về yếu tố thẩm vấn, phù hợp với các điều kiện của Việt Nam để đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn đảm bảo các quyền của người bị buộc tội.

1.1.5.Mối quan hệ giữa quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với một số nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự

Nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự là những quan điểm, những phương châm, và định hướng chi phối hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự”. Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng, đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời khi có tội phạm xảy ra, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan sai người vô tội. Đồng thời chúng còn là cơ sở để các người bị buộc tội bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. BLTTHS năm 2015 quy định 27 nguyên tắc cơ bản của TTHS (từ Điều 7 đến Điều 33). Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự mang tính định hướng cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Sự phối hợp và tác động của các nguyên tắc với nhau sẽ tạo một cơ chế tố tụng thống nhất, công bằng, hiệu quả, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Việc phân tích mối liên hệ giữa các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự với quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự để thấy được vị trí và tầm quan trọng của nguyên tắc này trong việc chi phối, định hướng cho hoạt động xây dựng và áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra

vụ án hình sự. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ xem xét, nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự như sau:

- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được ghi nhận tại Điều 8 Hiến pháp năm 2015. Trong BLTTHS năm 2015, nguyên tắc được quy định đầu tiên trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản, với tính chất là nguyên tắc hiến định, đặt nền tảng cho mọi hoạt động tố tụng hình sự. Điều 7 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” với mục đích đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ cho từng hoạt động tố tụng hình sự cũng như toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là tuân thủ triệt để Hiến pháp, các quy định pháp luật của các cơ quan, các tổ chức và mọi công dân. Sự nghiêm chỉnh tuân theo các quy định của pháp luật trong các hoạt động tố tụng hình sự là sự đảm bảo phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội. Nội dung cơ bản của nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi sự tuân thủ pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự định hướng cho quá trình xây dựng và thực thi pháp luật trong mọi hoạt động tố tụng giải quyết vụ án, làm cho quá trình tố tụng hình sự trong thực tiễn (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) được vận hành một cách trật tự, ổn định, thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu BLTTHS năm 2015 phải quy định đầy đủ và hoàn thiện các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ các quy định của pháp luật để không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội; cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền phải tôn trọng và bảo đảm cho người bị buộc tội

thực hiện đầy đủ các quyền của họ mà pháp luật đã quy định; mọi hành vi vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra xâm phạm đến quyền, lợi ích của người bị buộc tội đều phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật.

- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh được quy định trong BLTTHS. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự phải nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng hình sự. Nếu BLTTHS năm 2015 quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự đầy đủ, hoàn thiện sẽ góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án, bảo đảm tốt các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với nguyên tắc suy đoán vô tội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Nguyên tắc suy đoán vô tội nâng cao năng lực và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, loại trừ trường hợp chỉ chứng minh một chiều theo hướng suy đoán có tội và định kiến người bị buộc tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị buộc tội, đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là các cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội và một bên là người bị buộc tội với chức năng bào chữa. Tại Hiến pháp năm 2013, tinh thần của nguyên tắc quy đoán vô tội đã được thể hiện rò “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án

kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” Cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013, Điều 13 của BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu 21 lực pháp luật.Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 4

Nguyên tắc suy đoán vô tội là tiền đề, cơ sở đảm bảo cho quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Theo tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự được xác định là chưa có tội. Vì vậy, BLTTHS phải đảm bảo cho người bị buộc tội các quyền và lợi ích hợp pháp giúp họ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng ở giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự. Đồng thời yêu cầu các cơ quan người có thẩm quyền phải thận trọng và giữ thái độ khách quan trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, không được chủ quan nóng vội trong hoạt động chứng minh tội phạm dẫn đến xâm phạm các quyền của người bị buộc tội. Chỉ khi nào các cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng quy định của pháp luật trong việc tôn trọng và đảm bảo tốt các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra thì khi đó mới hạn chế được tình trạng oan sai trong quá trình giải quyết vụ án.

Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Đảm bảo quyền bảo chữa của người bị buộc tội là một nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015. Nguyên tắc này có hai nội dung sau đây: Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được đảm bảo trong suốt quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật. Việc quy định và đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội trong tố tụng hình sự góp

phần xác định sự thật vụ án, đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội, thể hiện bản chất nhân đạo, văn minh, tiến bộ của Nhà nước. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội chi phối, định hướng việc xây dựng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Theo đó, tinh thần của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội là kim chỉ nam cho việc quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ quan, người có thẩm quyền phải tôn trọng và đảm bảo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa. Đối với người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định của pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa cho họ.

1.2 Quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

Người bị buộc tội khi tham gia tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự được đảm bảo các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Dựa trên quy định của BLTTHS năm 2015, quyền người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra có thể phân chia thành bốn nhóm: nhóm một là các quyền cơ bản chung của người bị buộc tội được ghi nhận và đảm bảo giống như các chủ thể tham gia tố tụng khác như quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của cá nhân; nhóm hai là các quyền tố tụng chung của người bị buộc tội mà các tư cách người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đều có. Những quyền tố tụng này được BLTTHS quy định chung cho cả người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong các giai đoạn tố tụng; nhóm ba là các quyền đặc thù của người bị buộc tội với tư cách người bị tạm giữ hoặc bị can mới có phù hợp với địa vị tố tụng và giai đoạn tố tụng mà họ tham gia. Theo đó, càng đi sâu vào quá trình tố tụng, tư cách người bị buộc tội ở giai đoạn sau sẽ được được quy định nhiều quyền hơn so với giai đoạn trước để làm cơ sở pháp lý cho họ bảo vệ quyền của

mình; nhóm bốn là quyền tố tụng đặc thù của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.

1.2.1. Quy định của pháp luật về quyền cơ bản chung của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự người bị buộc tội bao gồm

người bị bắt, người bị tạm giữ và bị can. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra là người chưa có tội, vì vậy ngoài các quyền của người bị buộc tội tương ứng với các tư cách tố tụng được quy định tại Điều 58, 59, 60 BLTTHS năm 2015 thì người bị buộc tội cũng được pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo các quyền con người mang tính phổ quát chung khi tham gia tố tụng giống như các chủ thể tham gia tố tụng khác. Các quyền này được quy định tại Chương II của BLTTHS năm 2015, cụ thể:

- Quyền bình đẳng trước pháp luật

Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội, địa vị xã hội, bất kỳ ai phạm tội cũng đều bị xử lý trước pháp luật. Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền hiến định được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật trước hết là đảm bảo sự bình đẳng trong địa vị pháp lý tố tụng, cụ thể những người bị buộc tội với cùng tư cách tố tụng phải có các quyền và nghĩa vụ như nhau, pháp luật tố tụng hình sự không được có những quy định dẫn đến việc phân biệt đối xử giữa những người bị buộc tội theo các yếu tố địa vị xã hội, chức vụ, giới tính, dân tộc, tôn giáo. Quyền bình đẳng về địa vị pháp lý còn đòi hỏi sự công bằng trong trường hợp người bị buộc tội có những hạn chế, kiếm khuyết về thể chất, tâm thần và độ tuổi mà không sử dụng hiệu quả các quyền tố tụng của họ thì cần có những quy định đặc thù để giúp đỡ họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất.

- Quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân

Ở Việt Nam các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.

Tại Điều 8 BLTTHS năm 2015 đã xác định các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các cá nhân tham gia tố tụng, hoặc các cá nhân khác có liên quan đến hoạt động tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự người bị buộc tội là chủ thể có nguy cơ cao bị hạn chế các quyền và lợi ích nhất định. Vì vậy, họ là chủ thể cần được tôn trọng và ưu tiên bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi tham gia tố tụng. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng đối với họ để kịp thời hủy bỏ, thay đổi những biện pháp đó nếu thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.

- Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể được quy định tại Điều 20 của Hiến pháp năm 2013. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ, tạm giam phải theo quy định của BLTTHS. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người. Đây là quyền quan trọng để bảo đảm sự tự do về thân thể của con người khi rơi vào những bối cảnh phải đối diện với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. BLTTHS phải quy định rò điều kiện, phạm vi, thời hạn và trình tự, thủ tục của những biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người nói chung và của bị can dưới 18 tuổi nói riêng. Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người đặt ra yêu cầu về tính hợp pháp của việc áp dụng các biện phâp ngăn chặn như, bắt người, tạm giữ, tạm giam, những biện pháp này phải được quy định và áp dụng chặt chẽ, thống nhất để hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự,người bị buộc tội có thể bị áp dụng một số biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, bị hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể nhưng việc áp dụng những biện pháp này nhằm đảm bảo hiệu quả của các hoạt động khởi tố, điều tra và phải được thực hiện đúng theo quy định của BLTTHS.

- Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của cá nhân

Quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015. Theo đónghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân trong hoạt động tố tụng hình sự. Người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự cũng như những chủ thể tham gia tố tụng khácd có quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị buộc tội đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

- Quyền được bảo đảm bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân

Điều 12 BLTTHS năm 2015 quy định không ai được xâm phạm trái pháp luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân. Việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS. Đây là quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHSnăm 2015. Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quyền này có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật khi cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc khám xét chỗ ở, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử hoặc các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.

- Quyền được sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong tố tụng hình sự

Theo Điều 29 BLTTHS 2015 thì tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự là tiếng Việt nhưng công dân tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc minh. Như vây mọi công dân tham gia tố tụng với bất kỳ tư cách tố tụng nào cũng có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ để khai báo, trình bày nhằm đảm bảo sự chính xác, khách quan trong vụ án hình sự vì người bị buộc tội có thể gặp khó khăn trong việc trình bày chính xác, các tình tiết vụ án khi họ không biết tiếng Việt.

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí