Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự

hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác. Lời nhận tội của người bị buộc tội chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.

Việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc cũng đã khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định [53, K.1,Đ.9]”. Theo tinh thần đó, tại nhiều điều luật cụ thể của Bộ luật tố tụng hình sự đã nhấn mạnh các yêu cầu nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục, coi đó cũng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định”; chứng cứ mà không thu thập theo trình tự pháp luật qui định, không chứa đựng tính khách quan, thì có thể bị vô hiệu, không có giá trị chứng minh hành vi phạm tội của nghi can và hồ sơ phải được trả lại để điều tra bổ sung, bản án bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại khi xét xử phúc thẩm hoặc nếu phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng, tùy thuộc vào việc xuất hiện chứng cứ mới thì có thể xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm.

Bộ luật tố tụng hình sự cũng đã quy định trong một chương riêng về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Các biện pháp đó bao gồm: Ghi âm bí mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Trong những trường hợp đó, Bộ luật đã xác định chặt chẽ nhưng đảm bảo cho việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp công nhận, bảo đảm và bảo vệ [49, Đ.21]. Theo đúng yêu cầu: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [49, Đ.14].

Thứ hai, chủ thể được bảo đảm về quyền suy đoán vô tội

Nội dung này thể hiện ở việc xác định ai là người có quyền được suy đoán vô tội. Về vấn đề này có quan điểm cho rằng căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thì đối tượng có quyền được suy đoán vô tội có thể là bất kỳ người nào khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực. Điều này cũng phù hợp với ghi nhận quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho tất cả mọi người trong Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Pháp năm 1789. Có quan điểm khác cho rằng, để bảo đảm quyền con người thì cần nhận diện sự buộc tội phát sinh từ khi bắt, tạm giữ người bị tình nghi (chưa có quyết định khởi tố bị can) và tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn hình phạt (toàn bộ) hay được đại xá, ân xá. Vì vậy, phạm vi đối tượng có quyền được suy đoán vô tội bao gồm không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả những người bị kết án nhưng chưa chấp hành xong hình phạt. Cũng có quan điểm cho rằng, quá trình tố tụng hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can, nên đối tượng có quyền được suy đoán vô tội chỉ bao gồm bị can, bị cáo và họ có quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, dưới góc độ nhìn nhận việc buộc tội có thể có cả ở giai đoạn trước tố tụng (tiền tố tụng) đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, vì vậy, quan niệm hợp lý là đối tượng có quyền được suy đoán vô tội là “người bị buộc tội” bao gồm người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử (kể cả trong trường hợp xem xét lại bản án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm).

Quy định về “người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” nói lên rằng, người bị buộc tội luôn luôn được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa như Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự đã xác định và thực hiện quyền đó bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô tội của mình. Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và minh bạch của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ công lý. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, những người tham

gia tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền đưa ra chứng cứ mà không chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Đồng thời, những người này cũng có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ do các chủ thể tố tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó. Người bào chữa ngoài các quyền kể trên còn có quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản (khoản 1 Điều 73).

Người bị buộc tội cũng có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng mà nhiều người còn gọi ngắn gọn là “quyền im lặng” của người bị buộc tội. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự, phù hợp với khoản 3 Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội”. Quy định này nhằm ngăn cấm bất kỳ hình thức cưỡng bức nhận tội nào dù trực tiếp về thể xác hay tinh thần và dù là trước hay sau khi xét xử, có thể xử dụng để ép buộc người bị tình nghi, bị can, bị cáo phải chứng minh chống lại chính mình hay phải thú nhận. Ngoài ra, sự im lặng của bị cáo cũng không thể được sử dụng làm chứng cứ để chứng minh sự có tội và không thể rút ra được những hậu quả bất lợi từ việc áp dụng quyền giữ im lặng của bị cáo. Nói cách khác, không vì bị can, bị cáo im lặng hay rộng hơn họ không đưa ra chứng cứ cũng có nghĩa là họ bị coi là có tội đúng như Điều 67 Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế đã quy định về quyền của bị cáo: “Không bị buộc phải khai hoặc nhận tội và được giữ im lặng mà sự im lặng đó không bị coi là có tội hay vô tội”.

Quyền được im lặng của bị can, bị cáo cũng được Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định tại Điều 47, theo đó, bị can có quyền “phản đối việc buộc tội đưa ra những lời khai liên quan đến việc buộc tội của họ hoặc từ chối đưa ra những lời khai”. Chính vì vậy, một khi đã thừa nhận suy đoán vô tội với một trong những nội dung quan trọng của nó là khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc về bên buộc tội, thì không thể không ghi nhận quyền được im lặng của người bị buộc tội và quyền không phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình của họ. Xuất phát từ yêu cầu này mà trong quá trình tiến hành các biện pháp điều tra như bắt, tạm giữ, tạm giam, nội dung về quyền của người bị buộc tội không khai báo chống lại mình đã được coi là một trong những thủ tục tố tụng bắt buộc. Bộ luật Tố tụng hình sự của Việt Nam cũng đã thể hiện rất rò quyền im lặng bằng quy định: “Người bị giữ, người bị bắt được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” [52, Đ.58].

Người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên, căn cứ vào đối tượng có quyền được suy đoán vô tội thì phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự và trong một số trường hợp được áp dụng cả đối với giai đoạn tiền tố tụng (trong trường hợp bắt giữ người bị tình nghi) và khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị để xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, bởi một số lý do sau đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Một là, quá trình tố tụng hình sự được chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, nên khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can, bị tòa án quyết định đưa ra xét xử với tư cách là bị cáo cũng có nghĩa là họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm này và trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho đến khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, họ luôn có quyền được suy đoán vô tội. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành các giai đoạn của tố tụng hình sự, thực hiện triệt để các quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm để người bị buộc tội thực hiện quyền được suy đoán vô tội.

Hai là, trường hợp người bị tình nghi bị bắt, tạm giữ, mặc dù chưa văn bản tố tụng chính thức buộc tội, nhưng việc áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do và

Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay - 8

một số quyền khác thì ở chừng mực nhất định cũng thể hiện có sự buộc tội. Do đó, người bị tình nghi cũng là người bị buộc tội, có quyền được suy đoán vô tội và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng, bảo đảm quyền này trong suốt quá trình tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 cũng có những sửa đổi, bổ sung các quy định về các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự nhằm thể hiện và đảm bảo tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội ở khía cạnh đối xử với người bị buộc tội chưa bị coi là có tội như: Quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, tăng cường các giải pháp nhằm chống bức cung, nhục hình tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động tố tụng hình sự. Đặc biệt Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã được ban hành, trong đó có thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện ở chế độ đối xử với người tạm giữ, tạm giam với tư cách là những người chưa bị coi là có tội.

Ba là, khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án chính thức bị coi là có tội. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thì mặc dù bản án có hiệu lực pháp luật, nhưng cũng có thể bị kháng nghị để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm. Lúc này, bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên khi bản án có hiệu lực pháp luật, bản án bị khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm, trên phương diện lý luận thì bị cáo không được coi như người bị buộc tội nữa. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét lại kháng nghị thì cũng phải xem xét lại toàn diện hồ sơ vụ án đánh giá tính hợp pháp của hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh tội phạm ở giai đoạn điều tra, cũng như việc tranh tụng có đảm bảo theo quy định của pháp luật hay không để có phán quyết định hướng cho việc giải quyết vụ án đảm bảo tính khách quan, toàn diện, chính xác theo quy định của pháp luật. Đồng thời pháp luật tố tụng hình sự còn quy định thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị theo quy định tại Điều 404 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Những trình tự thủ tục nêu trên nhằm kiểm tra đánh giá, quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đã bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong việc giải quyết vụ án.

2.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự

Suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, liên quan trực tiếp đến việc xác định người bị buộc tội có bị kết tội hay không, bởi vậy, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc này, cần quán triệt thực hiện một số biện pháp, cách thức cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trên cơ sở ghi nhận của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc suy đoán vô tội, cần xây dựng nhận thức thống nhất trong các cơ quan, người tiến hành tố tụng về nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Thực tế cho thấy rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng như các nguyên tắc tố tụng hình sự khác cho dù có tiến bộ, đúng đắn, nhưng nếu không được bảo đảm thực hiện thì cũng không có ý nghĩa trên thực tế. Bởi vậy, yêu cầu tiên quyết là trên cơ sở ghi nhận của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc suy đoán vô tội, cần có sự nhận thức, quán triệt sâu sắc và hướng dẫn thực hiện nguyên tắc này trong các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Thực tế trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự cho thấy, quyền của người bị buộc tội rất dễ bị xâm hại bởi các hành vi “vượt quá giới hạn của người và cơ quan tiến hành tố tụng”. Chính bởi vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng vừa là chủ thể có nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, vừa là chủ thể bảo đảm để người bị buộc tội thực hiện quyền được suy đoán vô tội của mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng là chủ thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm chống lại sự xâm hại hoặc loại bỏ những rào cản trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội và tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền được suy đoán vô tội của mình. Vì vậy, để đảm bảo nhận thức thống nhất nguyên tắc này, các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm ngăn ngừa, hạn chế những vi phạm các quyền của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được suy đoán vô tội, nhất là xu hướng buộc tội chỉ căn cứ vào kết luận của cơ quan điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát, hoặc khi biết có vi phạm trong hoạt động tố tụng, nhưng không có biện pháp khắc phục do lo sợ nếu khắc phục thì người bị buộc tội có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại…

Thứ hai, các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng trách nhiệm chứng minh tội phạm.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi chỉ được kết tội một người khi chứng minh đầy đủ lỗi của người đó. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Vì vậy, pháp luật thừa nhận quyền của người đang được coi là vô tội không phải chứng minh mình vô tội, được im lặng và không khai báo về hành vi phạm tội của mình và các cơ quan tiến hành tố tụng không thể coi việc không khai báo làm căn cứ quy kết trách nhiệm tăng nặng của người bị buộc tội.

Kết luận buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo không còn nghi ngờ hợp lý. Ngược lại, nếu kết luận đó vẫn còn nghi ngờ hợp lý, thì quá trình chứng minh chưa đủ để kết tội. Nghi ngờ hợp lý đó chính là sự chưa đầy đủ về chứng cứ để buộc tội hoặc chưa rò ràng về pháp luật. Nếu còn tồn tại các nghi ngờ hợp lý này, quá trình xác định sự thật của vụ án chưa thành công. Mặt khác, nếu đã tìm đủ mọi biện pháp trong giới hạn luật định, mà không triệt tiêu được những nghi ngờ hợp lý trên, thì một người luôn vô tội và quá trình xác định sự thật của vụ án cũng kết thúc. Sự thật ở đây là một người không thực hiện tội phạm. Như vậy, trong quá trình tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy định nếu có sự nghi ngờ, không chắc chắn về hành vi phạm tội được giả định đối với người bị buộc tội thì phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho người bị buộc tội, nhất là đối với bị cáo tại phiên tòa xét xử có sự tranh tụng công khai. Theo pháp luật tố tụng hình sự của Canada, người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi bị chứng minh có tội tại Toà án theo luật định. Tòa án phải chứng minh mỗi yếu tố cấu thành tội phạm của bị cáo bị buộc tội với “nghi ngờ có căn cứ”. Tiêu chuẩn để xác định “nghi ngờ có căn cứ” được Toà án tối cao Canada giải thích như sau [43]: Một nghi ngờ có căn cứ không phải là nghi ngờ dựa trên sự đồng cảm hay định kiến; nghi ngờ này không đòi hỏi phải chứng minh cho một điều chắc chắn, tuyệt đối; nghi ngờ này không phải là bằng chứng chắc chắn nhất cũng không phải là một nghi ngờ tưởng tượng; nghi ngờ có căn cứ được đòi hỏi hơn là chứng minh rằng bị cáo có tội – một thẩm phán chỉ kết luận rằng, bị cáo có thể là có tội thì phải tuyên vô tội; chứng minh được khi không có sự nghi ngờ có căn cứ về điều gì đó gần với sự chắc chắn tuyệt đối hơn là gần với khả năng có tội.

Thứ ba, các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm các quyền của người bị buộc tội, trong đó có quyền được suy đoán vô tội ở các giai đoạn tố tụng hình sự.

Để thực hiện biện pháp này, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục pháp luật để bảo đảm các quyền của người bị buộc tội. Ví dụ như hạn chế áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết, tương xứng giữa mức độ nghiêm khắc của biện pháp cưỡng chế và mục đích của biện pháp này. Bởi lẽ, về nguyên tắc, người bị buộc tội với tư cách người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo vẫn được được coi là vô tội. Đặc biệt là để đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội, thì các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải thực hiện, tuân thủ đúng thời hạn tố tụng hình sự, xem xét, giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, nhất là khi vụ án kéo dài sẽ làm cho người bị buộc tội bị đặt vào tình trạng pháp lý bất lợi, dễ bị xâm hại các quyền của mình, nhất là nguy cơ bị bức cung, dùng nhục hình…và đảm bảo thực sự các quyền có liên quan của người bị buộc tội được pháp luật quy định (ví dụ như đảm bảo quyền bào chữa, quyền tranh tụng bình đẳng giữa các chủ thể tại phiên tòa hình sự).

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng và tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa. Bởi lẽ khi và chỉ khi coi người bị buộc tội chưa phải là người có tội thì mới phát sinh vấn đề tranh tụng để đi tìm sự thật của vụ án là một người có tội hay không; quy định các điều kiện để đảm bảo quyền bào chữa và tranh tụng như: Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa; quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa, tham gia các hoạt động tố tụng hình sự; quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo đảm bảo việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa, quy định rò trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử được đầy đủ toàn diện khách quan, để làm rò sự thật của vụ án.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí