tụng. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự như được ghi nhận tại Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 19661 với bản chất là người bị buộc tội không buộc phải khai báo để chống lại mình.
Thứ hai, người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi hành vi phạm tội của họ được xác định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền.
Khoản 1, 2, 3 Điều 9, khoản 1 Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc cũng đã xác định: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”. “Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự”. Nội dung này xuất phát từ chức năng xét xử của Tòa án, theo đó, yêu cầu đặt ra là bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật. Đồng thời, bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự. Bởi vậy, chỉ khi bản án kết tội của tòa dựa trên các chứng cứ, lời tranh tụng một cách khách quan, minh bạch, bình đẳng đã khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm thì người bị buộc tội mới bị coi là có tội. Nếu chưa đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội thì Tòa án không được kết tội thì tòa không kết tội đối với người bị buộc tội. Bản án của Tòa án là văn bản pháp lý thể hiện kết quả của hoạt động xét xử. Bản án kết tội của Tòa án xác định
1 Khoản 3, Điều 14 Công ước quy định: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội”.
một người là tội phạm và phải chịu hậu quả pháp lý hình sự, do đó, bản án phải chính xác, có căn cứ, hợp lý, không thể dựa trên các giả định. Bởi vì giả định chỉ là khả năng, không phải là sự thật khách quan. Tòa án không thể bác bỏ “suy đoán” vô tội bằng các “giả định” phạm tội. Từ đó, để đảm bảo nội dung nguyên tắc này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã có những quy định cụ thể về chứng cứ, lời khai của những người tham gia tố tụng cũng như trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó. Đây là yêu cầu về logic tư duy đối với những người tiến hành tố tụng hình sự, theo đó trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rò ràng trong việc xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng với tất cả các biện pháp được thực hiện nhưng không thể làm rò, vẫn còn hoài nghi và còn mâu thuẫn trong quá trình chứng minh người bị buộc tội là tội phạm thì cần suy đoán theo hướng có lợi cho người bị buộc tội là họ không phạm tội. Mục đích của yêu cầu này là tránh việc buộc tội theo tư duy có thể làm oan còn hơn bỏ lọt tội phạm và đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kiểm tra, chứng minh làm rò những vấn đề còn nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo; nếu không chứng minh làm rò được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội là họ không phạm tội.
Như vậy, những phân tích nêu trên cho thấy rò ba nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội và dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự thì những nội dung này cũng chính là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ đồng thời phải luôn đặt trong mối quan hệ không tách rời với các nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng để cùng được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng nhằm xác định người bị buộc tội có phạm tội hay không, có thực hiện được như vậy mới mới thực đảm bảo thực hiện được nguyên tắc suy đoán vô tội được triệt để.
Như vậy, trên cơ sở này, cần làm sáng tỏ khái niệm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Như đã nêu ở trên, suy đoán vô tội được coi là một quyền cơ bản của người bị buộc tội, bởi vậy, việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội cũng có nghĩa là đảm bảo quyền của người bị buộc tội. Bởi vậy, việc đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc phòng ngừa, ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng quyền hạn, vi phạm quyền được suy đoán vô tội. Đặc biệt là, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vấn đề đảm bảo pháp lý đối với quyền được suy đoán vô tội được thể hiện bằng những quy định pháp luật cụ thể có ý nghĩa quan trọng. Về bản chất, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu là những phương tiện, biện pháp được pháp luật quy định theo đó quyền được suy đoán vô tội được bảo vệ, ngăn chặn và loại trừ vi phạm. Tuy nhiên, dưới góc độ tố tụng hình sự, việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có thể được hiểu là những biện pháp, phương tiện do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn nhiệm vụ của tư pháp hình sự và quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Điều này có nghĩa là, nếu chỉ hướng tới việc bảo đảm nhiệm vụ của tư pháp hình sự mà không chú trọng đến việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thì sẽ làm mất đi vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội, thậm chí không đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự (ví dụ như vi phạm trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…). Vì vậy, để bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội thì đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình theo trình tự, thủ tục pháp luật hình sự quy định. Điều này cũng có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo đảm các quyền của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng, trong đó có quyền được suy đoán vô tội.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu
- Những Nội Dung Nghiên Cứu Đã Sáng Tỏ Và Được Luận Án Kế Thừa
- Khái Niệm, Ý Nghĩa Của Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự
- Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự
- Các Yếu Tố Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự
- Thực Trạng Quy Định Về Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Bảo đảm được hiểu là “Tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được, hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết” [99]. Như vậy, “Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội” được hiểu là tạo điều kiện cần và đủ để thực hiện được
nguyên tắc trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự nhằm làm rò sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, sẽ là chưa toàn diện nếu cho rằng, việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội chỉ giới hạn bởi nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, mà vấn đề không kém phần quan trọng là bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thông qua các biện pháp, cơ chế khác như quyền khiếu nại, tố cáo hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng được pháp luật quy định cho những người tham gia tố tụng nói chung, người bị buộc tội nói riêng trong quá trình tố tụng. Trong các giai đoạn tố tụng, pháp luật đều quy định cụ thể nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và có những chế tài tương ứng khi các quyền của người bị buộc tội bị vi phạm.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau:
Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cần và đủ để người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ (nếu có) được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền.
Với khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ thể hiện ở những quy định về các quyền của người bị buộc tội (quyền bào chữa, quyền giữ im lặng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể) mà còn thể hiện ở các nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thực hiện đúng các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự để đảm bảo các quyền của người bị buộc tội (ví dụ như: bảo đảm quyền được mời luật sư từ khi khởi tố bị can, quyền yêu cầu giám định…).
2.1.2. Ý nghĩa của bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Việc ghi nhận trong pháp luật quốc tế, sự thừa nhận và thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng.
Ở nước ta, việc Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Một là, đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần vào việc bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, là một trong những nội dung cơ bản về quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế năm 1948, Công ước quốc tế năm 1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nguyên tắc này đòi hỏi trong suốt quá trình tố tụng hình sự, các chủ thể tiến hành tố tụng không được coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người đã có tội, mà phải coi họ là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm (giả định là tội phạm), kể cả khi bị áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do thì họ vẫn còn những quyền con người và những quyền công dân khác cần được tôn trọng và bảo đảm. Bởi vậy, trong tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội có thể coi là một biện pháp bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội – quyền được suy đoán vô tội để ràng buộc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể tiến hành tố tụng (người bị hại, điều tra viên, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử). Thậm chí, yêu cầu cao hơn đặt ra là ngoài các chứng cứ buộc tội, các chủ thể tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm thu thập cả các chứng cứ gỡ tội; phải có thái độ vô tư, không được định kiến đối với người bị buộc tội để bảo đảm tính khách quan của quá trình tố tụng của vụ án. Người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội của mình và có quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu với các cơ quan tố tụng. Ngoài ra, nguyên tắc này còn thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của hoạt động tố tụng hình sự khi buộc các chủ thể tố tụng phải giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội trong trường hợp các quy định của pháp luật chưa rò ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, giải thích khác nhau. Từ đó, để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc suy đoán vô tội thì các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải được thể hiện một cách đầy đủ, chính xác các nội dung của nguyên tắc này.
Hai là, đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần vào việc phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự. Điều này đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực
thi pháp luật phải nhận thức rò tầm quan trọng của mỗi công việc, nhiệm vụ, thủ tục mình thực hiện có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và quyền con người, thậm chí cả tính mạng của người bị buộc tội để từ đó đảm bảo cho các trình tự tố tụng hình sự thực sự khách quan, vô tư và không làm oan người vô tội. Việc thực hiện nguyên tắc này là tiền đề bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc suy đoán vô tội ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử là một trong những điều kiện cho việc phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chúng ta cũng nên nhất trí rằng, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc minh oan cho người vô tội cũng quan trọng và có ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người có tội.
Ba là, đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần vào việc xác định rò trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong việc chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội với từng giai đoạn tố tụng hình sự.
Các chủ thể tiến hành tố tụng cần nhận thức rò việc người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội để từ đó bảo đảm các điều kiện cần thiết để người bị buộc tội có thể thực hiện tốt nhất quyền bào chữa của mình trong quá trình tố tụng. Chính vì vậy, nguyên tắc này góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ giữa Nhà nước (các cơ quan tiến hành tố tụng) và cá nhân người bị buộc tội mà cả ở góc độ thể chế và thực tiễn thì người bị buộc tội thường có vị thế yếu hơn và dễ bị vi phạm hơn trước yêu cầu “không bỏ lọt tội phạm, nhưng cũng không là oan người vô tội”. Cần phải đưa ra nhận định rằng, coi bị can chưa phải là người có tội thì mới đảm bảo được tính khách quan của điều tra viên, kiểm sát viên trong việc thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu coi người bị bắt giữ với tư cách là người bị tình nghi, người bị khởi tố với tư cách là bị can đã là người có tội thì dễ dẫn đến hậu quả là điều tra viên, kiểm sát viên chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm của người bị bắt giữ và bị can chứ không quan tâm đến việc làm sáng tỏ các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ.
Nếu hội đồng xét xử coi bị cáo là người có tội trước khi mở phiên tòa xét xử thì sẽ không đảm bảo được sự khách quan trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá ý
kiến tranh luận của các bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra. Việc coi một người là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án có nghĩa là đồng nhất các khái niệm người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án đều là người có tội, thì nguyên tắc suy đoán vô tội không được áp dụng, đồng nghĩa với việc tranh tụng nếu diễn ra chỉ là hình thức, không có ý nghĩa gì. Do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, khi giao nhiệm vụ cho người tham gia tố tụng phải quán triệt cá nhân thực hiện nhiệm vụ phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc suy đoán vô tội; thì vụ án mới được giải quyết một cách khách quan, toàn diện đúng pháp luật.
Bốn là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo đảm quyền được suy đoán vô tội theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bởi vì, thực tế có nhiều vụ án cho dù đã tiến hành đầy đủ các biện pháp tố tụng trong thời hạn quy định nhưng không chứng minh đầy đủ, rò ràng hành vi phạm tội của người bị buộc tội thì cần phải suy đoán người bị buộc tội là vô tội. Đặc biệt là điều này tránh được việc kéo dài vụ án, gây phức tạp cho vụ án khi mà trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo một cách thuyết phục nhưng không tuyên bị cáo vô tội, không tuyên hủy án sơ thẩm mà vẫn trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung…
Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ, hướng tới mục tiêu bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng hình sự không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm, họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can. Nguyên tắc này cũng đảm bảo tính pháp chế trong quá trình tiến hành tố tụng, đồng thời, là nhân tố phát triển tính đúng đắn trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
2.2. Chủ thể có trách nhiệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Để bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội, đòi hỏi cơ quan, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm quyền được suy đoán vô tội, đối với người bị
buộc tội thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định, đồng thời, phải bảo đảm để người bị buộc tội thực hiện quyền suy đoán vô tội. Như vậy, chủ thể và tầm quan trọng của bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự được xác định là:
Thứ nhất, chủ thể có trách nhiệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội là các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, mà trực tiếp bảo đảm là người có thẩm quyền thực hiện đúng qui định của pháp luật trong suốt quá trình tố tụng.
Về nguyên tắc, hành vi của người bị buộc tội chưa được chứng minh và được quyết định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền thì người bị buộc tội vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng và cả những chủ thể khác như cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... có trách nhiệm phải tôn trọng quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Hay nói cách khác là, mọi hình thức thể hiện sự quy kết có tội đối với người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào trước khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền đều vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội đã xác định rò, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rò các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Yêu cầu về chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm chứng minh. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Điều này có nghĩa rằng, cơ quan có thẩm quyền, mà cụ thể là người có thẩm quyền trực tiếp trong các giai đoạn tố tụng, không được bắt buộc người bị buộc tội phải chứng minh là mình vô tội dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, ở đây cũng cần chú ý, nguyên tắc này đặt ra trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan buộc tội mà cụ thể là người có thẩm quyền; song pháp luật cũng nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các