Kết thúc kiểm toán: Bộ phận KTNB phải thực hiện công bố kết quả KTNB. Kiểm toán viên có thể lập báo cáo giữa kỳ bằng văn bản hoặc bằng miệng gửi cho lãnh đạo bộ phận được kiểm toán. Kiểm toán viên nội bộ thảo luận với ban quản lý các cấp thích hợp về các kiến nghị trước khi đưa ra báo cáo chính thức cuối cùng. Báo cáo KTNB cần đưa ra những kiến nghị để cải tiến khắc phục tồn tại của đơn vị một cách rõ ràng. Báo cáo KTNB trong các tập đoàn của Mỹ thường được gửi trực tiếp cho người có trách nhiệm như chủ tịch hội đồng quản trị, trưởng ủy ban KTNB chứ không gửi cho bộ phận hay một nhóm. Trong báo cáo của KTNB, KTVNB sẽ trình bày cả những ưu điểm và hạn chế của kiểm soát nội bộ và của quá trình vận hành, tác nghiệp trong tập đoàn, đồng thời cũng đưa ra kiến nghị của KTNB.
Theo dõi sau thực hiện: KTNB cần kiểm tra thực hiện kiến nghị của KTNB và của cả kiểm toán viên bên ngoài. Ngoài ra, kiểm toán viên nội bộ cần hỗ trợ việc thực hiện kiến nghị một cách thiết thực. Kiểm tra việc thực hiện kiến nghị được coi như một phần việc của kỳ kiểm toán sau.
Quy trình KTNB theo chuẩn mực quốc tế. Quy trình này được IIA thông qua và ban hành tháng 12/2001. Quy trình này cũng bao gồm 4 giai đoạn: lập kế hoạch, thực hiện công việc kiểm toán, thông báo kết quả kiểm toán và giám sát. Điểm khác biệt của quy trình này so với quy trình đã nêu ở trên:
Lập kế hoạch kiểm toán: Kế hoạch kiểm toán được xây dựng bao gồm kế hoạch kiểm toán năm và kế hoạch kiểm toán chi tiết cho từng cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán năm được xây dựng dựa trên mức độ đánh giá rủi ro của các bộ phận và hoạt động trong đơn vị. Các bộ phận hay hoạt động nào có mức độ rủi ro cao hơn sẽ được ưu tiên đưa vào kế hoạch kiểm toán năm. Các bộ phận được kiểm toán có thể do chính người quản lý bộ phận đưa ra đề xuất. Quá trình lập kế hoạch được thực hiện dựa trên thảo luận với người quản lý đối tượng kiểm toán.
Thực hiện kiểm toán: Quá trình thu thập, phân tích, lý giải và ghi chép thông tin phải được đảm bảo hợp lý rằng đã duy trì được sự khách quan và đạt được mục tiêu của công việc.
Giám sát kết quả: Kiểm toán viên phải đảm bảo bộ phận được kiểm toán đã có những biện pháp hữu hiệu và thích hợp nhất để thực hiện kiến nghị đã được đề ra trong báo cáo.
Hoạt động KTNB xuất hiện khá muộn tại Châu Á nhưng không vì thế mà KTNB ở châu lục này kém phát triển. Phần lớn các nước Châu Á đều tổ chức KTNB theo hướng dẫn của IIA như tại Nhật, Singapore, Malaysia. Đặc biệt tại Singapore và Malaysia tính chuyên nghiệp trong thực hiện kiểm toán được thể hiện rất tốt. KTNB của các tập đoàn tại các nước này đều có Quy chế KTNB được xây dựng chi tiết. Hơn thế nữa, phần lớn các KTVNB đặc biệt là trưởng KTNB đều có chứng chỉ KTVNB do Hiệp hội KTVNB của quốc gia hoặc của IIA cấp. Tại các tập đoàn kinh tế của Nhật, quy trình thực hiện kiểm toán được thực hiện theo đúng các hướng dẫn về quy trình do IIA ban hành. Tuy nhiên điểm khác biệt cơ bản của quy trình này là: KTNB được xem như một công cụ tiến hành song song với các kỹ thuật quản lý như kỹ thuật quản lý chất lượng toàn diện (TQM), kỹ thuật cải tiến liên tục (Kaizen). Do đó quá trình KTNB của các doanh nghiệp ở Nhật mặc dù vẫn theo quy trình chung được đề cập ở trên nhưng trình tự tiến hành kiểm toán cụ thể với từng loại hoạt động kiểm toán có những điểm khác biệt nhất định. Trong thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, KTNB hướng đến đánh giá thông tin và quy trình thực hiện. Trong kiểm toán báo cáo kế toán quản trị, kiểm toán hướng đến đánh giá tính kịp thời của thông tin và đánh giá mức độ tin cậy và hữu dụng của các dự báo. Trong kiểm toán hoạt động, KTNB hướng đến đánh giá hoạt động điều hành của cac giám đốc bộ phận, lấy quy chế làm việc của doanh nghiệp làm nền tảng để điều tiết.
1.3.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 7
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 8
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 9
- Đặc Điểm Về Cấu Trúc Tổ Chức Và Bản Chất Liên Kết Của Các Tập Đoàn Kinh Tế Của Việt Nam
- Đặc Điểm Tổ Chức Quản Lý Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Tập Đoàn Kinh Tế Của Việt Nam
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
KTNB hình thành và phát triển từ tính khách quan của quản lý, do đó tại mỗi quốc gia khác nhau tổ chức KTNB lại được thực hiện khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu quản lý. Hơn nữa, KTNB được xây dựng trong các tập đoàn còn phụ thuộc rất nhiều vào mô hình tổ chức của mỗi tập đoàn. Tuy nhiên, có thể khái quát các đặc trưng chung trong tổ chức bộ máy KTNB theo những điểm sau:
Thứ nhất, về đặc trưng của tập đoàn ảnh hưởng đến tổ chức KTNB: Trên thế giới phần lớn các tập đoàn được hình thành tự nhiên theo quy luật của thị trường. Xu hướng hình thành tập đoàn này phổ biến tại các nước châu Âu và châu Mỹ như Pháp, Mỹ, Anh, Canada. Với xu hướng hình thành tập đoàn theo cách này, KTNB sẽ thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát với tư cách là một phương thức quản lý của chủ sở hữu. Khi đó, KTNB có thể được tổ chức dưới hình thức một bộ phận hoặc một phòng ban trực thuộc ban giám đốc. Điều này cũng tương đồng với quan điểm trong tuyên bố LIMA về chuẩn mực của kiểm toán tài chính do INTOSAI và các hướng
dẫn về tổ chức kiểm soát nội bộ nói chung và KTNB nói riêng như chuẩn mực chung COSO của Mỹ, chuẩn mực chung CoCo của Canada và hướng dẫn báo cáo Turnbull của Anh. Trong các chuẩn mực và hướng dẫn này đều khẳng định KTNB phải được xây dựng dưới quyền của người đứng đầu đơn vị. Tuy nhiên, các tập đoàn cũng có thể hình thành bằng cách mệnh lệnh hành chính của chính phủ, điển hình là các tập đoàn của châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản và Malaysia. Điều này dẫn đến xu hướng kiểm tra kiểm soát vừa với tư cách của chủ sở hữu vừa thực hiện kiểm tra kiểm soát hành chính. Vì vậy, trong một số tập đoàn của Malaysia, trưởng bộ phận KTNB là nhân viên thuộc cơ quan kiểm toán nhà nước.
Các tập đoàn trên thế giới, đặc biệt là tại các nước phát triển, mô hình tập đoàn đã tương đối hoàn thiện. Trong tập đoàn không tồn tại ban điều hành hay văn phòng điều hành. Các quan hệ liên kết được thực hiện thông qua đơn vị then chốt của tập đoàn là công ty mẹ. Chính vì vậy, việc xây dựng và tổ chức KTNB tại các tập đoàn này theo hướng kiểm toán dựa trên quan hệ sở hữu là chủ yếu. Hơn nữa, việc tổ chức KTNB tại công ty con hoàn toàn căn cứ vào doanh thu, tổng sản lượng, số lượng lao động, mức độ phức tạp về tài chính, thương mại…
Về cơ sở pháp lý cho hoạt động: Ở các nước phát triển, bộ phận KTNB là phương thức quản lý của nhà quản lý nên họ có toàn quyền lựa chọn và quy định chức năng, nhiệm vụ của KTNB. Các kiểm toán viên nội bộ thường không bị hạn chế bởi bất kỳ quy định nào về mặt pháp lý của Nhà nước mà chỉ chịu sự chi phối của các quy định chuyên môn do các tổ chức nghề nghiệp ban hành. Có thể xem xét đến việc xây dựng cơ pháp lý cho hoạt động kiểm toán tại một số nước như sau:
Ở Mỹ, Chính phủ không đưa ra một yêu cầu pháp lý nào đối với KTNB tại các doanh nghiệp mà hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc doanh nghiệp dựa vào các chuẩn mực KTNB của Viện Kiểm toán nội bộ Mỹ ban hành để thiết lập và vận hành bộ máy KTNB của họ. Năm 2002 sau sự sụp đổ của hai công ty Enron và Worldcom, Đạo luật Sarbanes Oxley ra đời và được chỉnh sửa năm 2004 đặt ra quy định về việc các công ty phải lập ra Báo cáo kiểm soát nội bộ trong đó đề cập đến các vấn đề liên quan đến các vấn đề về kiểm tra, kiểm soát. Đạo luật này cũng quy định Ban giám đốc doanh nghiệp không có quyền chỉ định kiểm toán độc lập mà quyền này thuộc về Ủy ban kiểm toán. Điều đó có nghĩa là trong luật của Mỹ chỉ quy định đến việc lập Ủy ban kiểm toán trong Hội đồng quản trị chứ không bắt buộc lập bộ phận KTNB. Tuy nhiên, do vai trò quan trọng của KTNB, phần lớn các tập đoàn đều tổ chức KTNB.
Ở Pháp, KTNB chính thức được công nhận năm 1960. KTNB của Pháp phát triển rất nhanh ngay sau đó. Một vài hướng dẫn KTNB của một số tập đoàn lớn như tập đoàn viễn thông Alcatel được coi như cẩm nang kiểm toán của rất nhiều tập đoàn khác hoạt động cùng ngành. Năm 1965, thành lập Viện Kiểm toán viên nội bộ của Pháp, sau trở thành Viện nghiên cứu kiểm toán viên và kiểm soát viên nội bộ vào năm 1973. Trong các quy định luật pháp của nước này không bắt buộc thành lập KTNB mà hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu quản lý và điều hành của từng doanh nghiệp.
Về cách thức tổ chức bộ máy kiểm toán:
Ở Mỹ, KTNB thường được tổ chức theo cách sau: trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp hình thành các ủy ban. Các ủy ban này thường bao gồm Ủy ban kiểm toán, Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban nhân sự cao cấp và Ủy ban lương thưởng. Nếu không có Ủy ban rủi ro riêng, Ủy ban kiểm toán sẽ đảm nhận nhiệm vụ của Ủy ban rủi ro. Trong ủy ban này, các thành viên phải độc lập với bộ máy quản lý và điều hành không bị ảnh hưởng bởi lợi ích và quan hệ với Ban điều hành. Ủy ban này sẽ thiết lập bộ phận KTNB thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban kiểm toán. Trong bộ phận KTNB tổ chức thành hai nhóm: nhóm thực hiện kiểm toán: nhóm này sẽ thực hiện trực tiếp các cuộc KTNB, nhóm phát triển kiểm toán thực hiện duy trì đào tạo KTNB và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán.
Từ phân tích kinh nghiệm tổ chức KTNB ở một số nước trên thế giới có thể thấy được đặc trưng chung trong tổ chức KTNB như sau:
Một là, KTNB hình thành và phát triển từ yêu cầu quản lý và phục vụ cho yêu cầu này. Tập đoàn có mô hình hoạt động càng phức tạp thì đòi hỏi tổ chức KTNB càng cấp thiết.
Hai là, Cách thức tổ chức và nội dung thực hiện của KTNB tùy thuộc vào quy mô của mỗi tập đoàn và mỗi đơn vị trong tập đoàn, yêu cầu quản lý của mỗi thời kỳ. Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều không có quy định bắt buộc tổ chức KTNB trong doanh nghiệp nói chung và trong các tập đoàn kinh tế nói riêng nhưng đều có các quy định mang tính khuyến khích.
Ba là, KTNB thường trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất và độc lập với các bộ phận được kiểm tra trong tập đoàn. KTNB độc lập với các bộ phận khác và với hoạt động được kiểm toán.
Bốn là, KTNB thực hiện kiểm toán đều dựa trên các chuẩn mực thực hành nghề nghiệp.
Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức KTNB ở một số nước trên thế giới sẽ là một tiền đề để hoàn thiện và lựa chọn cách thức tổ chức tốt nhất cho KTNB ở các doanh nghiệp Việt Nam. Đây sẽ là căn cứ để các tập đoàn kinh tế của Việt Nam vận dụng những thành công và tránh những thất bại của các tập đoàn trên thế giới.
Kết luận Chương 1
KTNB được xem là một phương thức cơ bản của quản lý, một sự đánh giá độc lập trong một tổ chức nhằm làm gia tăng giá trị trong hoạt động của tổ chức. Các đánh giá này có thể ở diện rộng bao gồm cả hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu năng của các hoạt động quản lý, hiệu lực của các hoạt động kiểm soát.
Trong Chương này, Tác giả đã đưa ra những nội dung cơ bản về tập đoàn kinh tế, phương thức hình thành các tập đoàn kinh tế. Đồng thời tác giả đã phân tích các mô hình tập đoàn kinh tế và các đặc trưng cơ bản của tập đoàn kinh tế. Trong mối liên hệ với mô hình hoạt động và đặc trưng cơ bản của tập đoàn kinh tế, Tác giả Luận án đã phân tích nội dung KTNB trên cả hai mặt của tổ chức bao gồm tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy KTNB. Tác giả hệ thống hóa các lý luận về quy trình kiểm toán do KTNB thực hiện khi tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Bên cạnh đó, Luận án cũng đề cập đến các mô hình tổ chức KTNB và đưa ra phân tích ưu nhược điểm của những mô hình này. Ngoài ra, Luận án cũng xem xét đến tổ chức KTNB tại một số quốc gia trên thế giới phát triển về kiểm toán.
Việc xác định cách thức tổ chức công tác và cách thức tổ chức bộ máy của KTNB phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Lý luận về tổ chức KTNB và kinh nghiệm ở các quốc gia trên thế giới sẽ tạo tiền đề để xem xét và đánh giá tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế của Việt Nam
Với việc chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đang đứng trước vận hội lớn để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bối cảnh mới đó đòi hỏi sự phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở việc nâng cao tốc độ tăng trưởng mà còn phải chủ động lựa chọn những chiến lược phát triển kinh tế năng động, phù hợp với đặc thù của nước ta. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn với các lợi thế về sự ổn định chính trị xã hội, về vị trí địa lý và khí hậu, tài nguyên và đặc biệt là nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang hoạt động với quy mô nhỏ lẻ, hoạt động manh mún và kém hiệu quả và chịu tác động chi phối của các quy luật bất biến trong nền kinh tế thị trường trong đó quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu là những đặc trưng cơ bản. Yêu cầu về tích tụ và tập trung vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền lực kinh tế, tăng cường hiệu quả tất yếu sẽ dẫn đến việc hình thành tập đoàn kinh tế.
Việc sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành các tập đoàn kinh tế xuất phát từ những lý do khách quan của sự phát triển kinh tế trong nước và xu hướng phát triển kinh tế của thế giới. Những nhân tố khách quan và sự đòi hỏi cấp thiết cần phải thành lập các tập đoàn kinh tế cần kể đến là:
Thứ nhất, Xét về phương diện vĩ mô của nền kinh tế và tầm quan trọng của khu vực kinh tế quốc doanh, cần xác lập các mô hình thích hợp để phát triển các doanh nghiệp nhà nước một cách vững chắc và có hiệu quả. Sự thay đổi trong khu vực này phải được thực hiện trên cả hai mặt chất và lượng nhằm tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp nhà nước với đầu tầu là các tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, Môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế đã và đang thay đổi nhanh chóng với các tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hoá. Mức độ cạnh tranh giữa các tập đoàn trên thế giới buộc các tổ chức kinh tế này không ngừng đổi
mới để tồn tại và phát triển. Điều đó tất yếu dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, các nguồn lực và hình thành các tập đoàn kinh tế.
Thứ ba, Cơ chế quản lý kinh tế đối với các doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ những khiếm khuyết cần được khắc phục. Cách thức quản lý hành chính đối với các đơn vị kinh tế đã dẫn đến việc các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả trong nền kinh tế. Hình thức phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như việc đầu tư tràn lan, phát triển quá mức vào một số ngành nghề sinh lợi ngắn hạn. Do đó, cần cải cách và cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Nhà nước cần rà soát đánh giá lại các doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn các doanh nghiệp có thể phát triển được trong điều kiện hội nhập kinh tế. Những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài không thể tiếp tục tồn tại được thì xử lý bằng các biện pháp thích hợp như sáp nhập, hợp nhất, giải thể.
Thứ tư, Quá trình đổi mới sắp xếp lại các tổng công ty nhà nước trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế đã hội đủ các điều kiện và khả năng để hình thành một số tập đoàn kinh doanh lớn mạnh về quy mô, về phạm vi hoạt động với sự tích tụ và tập trung hoá về vốn và các nguồn lực khác. Ngoài ra, sự đổi mới về chủ trương của nhà nước cũng là một tiền đề vững chắc cho sự phát triển các tập đoàn kinh tế. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: "Tổng kết mô hình tổng công ty nhà nước, trên cơ sở đó có phương án xây dựng các tổng công ty thực sự trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là xương sống của nền kinh tế. Xem xét, sắp xếp lại những tổng công ty không phù hợp, hoạt động kém hiệu quả" [24, tr71]. Trên cơ sở chủ trương đó, Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm thay đổi cơ chế quản lý và tổ chức của các tổng công ty tạo điều kiện cần và đủ cho các tập đoàn kinh tế có thể hình thành và hoạt động.
Ý tưởng ban đầu về xây dựng và phát triển mô hình sản xuất kinh doanh quy mô lớn ở Việt Nam khởi nguồn từ những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Trong Nghị định Số 302/HĐBT ngày 30/12/1978 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã xác định xây dựng liên hiệp xí nghiệp là thiết lập các tổ chức kinh doanh gồm các xí nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một ngành kinh tế kỹ thuật và là một cơ quan quản lý sản xuất kinh doanh. Vào thời điểm đó, liên hiệp xí nghiệp thực hiện hai chức năng là kinh doanh và quản lý nhà nước với mục tiêu đảm bảo thực hiện kế hoạch và cân đối cơ cấu sản xuất theo ngành, mặt hàng.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế Việt nam chuyển dần từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các Liên hiệp xí nghiệp bộc lộ những bất cập trong điều kiện mới. Vì vậy, tất yếu phải có sự thay đổi về mặt quy chế hoạt động của loại hình này. Theo xu hướng đó, Nghị định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) ngày 20/11/1991 đã đặt ra quy định các đơn vị thành viên được đăng ký thành lập doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, hoạt động theo điều lệ doanh nghiệp nhà nước. Nghị định này đã đánh dấu sự chấm dứt tồn tại của mô hình liên hiệp xí nghiệp quản lý tập trung và thay vào đó là mô hình tổng công ty nhà nước. Mô hình này là sự sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp theo hướng hình thành thực thể kinh doanh có quy mô lớn, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị Lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã nhấn mạnh: "Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn, với mức tích tụ tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới" [24, tr90].
Thực hiện chủ trương đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 90/TTg ngày 07-03-1994 và Quyết định 91/TTg về thủ tục thành lập, đăng ký lại và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Theo các quyết định này, các tiêu chí đã đã được lượng hoá: Đối với tổng công ty thành lập theo Quyết định 90/TTg (thường được gọi tắt là tổng công ty 90), tổng vốn pháp định phải trên 500 tỷ đồng, trong một số trường hợp xác định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng; phải có ít nhất 5 đơn vị thành viên có quan hệ với nhau về tài chính, đầu tư, dịch vụ, tiêu thụ. Đối với các tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg (gọi tắt là tổng công ty 91) tổng vốn pháp định ít nhất là 1000 tỷ đồng, phải có ít nhất 7 đơn vị thành viên. Các tổng công ty 91 này có thể hoạt động đa ngành nhưng nhất thiết phải có ngành kinh doanh chủ đạo, được phép tổ chức công ty tài chính với chức năng điều hoà vốn trong nội bộ tổng công ty. Trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định số 91/TTg, việc "thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh" đã được sửa đổi thành "thí điểm thành lập một số tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh". Rõ ràng đây không phải là sự sửa đổi đơn thuần về mặt từ ngữ mà quan trọng hơn đó là sự thay đổi về cái nhìn, cách thiết lập lộ trình và nội dung thực hiện. Quan điểm của việc sửa đổi trên thể hiện ý tưởng của Nhà nước trong việc hình thành tập đoàn kinh doanh bằng cách tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.