cho quản lý nhưng vẫn còn những tồn tại trong thiết kế, vận hành và đánh giá. Trên cơ sở này, Tác giả sẽ xem xét các yếu tố của hệ thống kiểm soát nội bộ trong tập đoàn, phân tích ưu và nhược điểm của từng yếu tố làm cơ sở xem xét và đánh giá một yếu tố quan trọng của hệ thống này là KTNB trong những phần sau.
Môi trường kiểm soát trong các tập đoàn kinh tế
Môi trường kiểm soát là những nhân tố bên trong hay bên ngoài tác động đến việc thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ. Môi trường kiểm soát có thể chịu ảnh hưởng bởi đặc thù quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch và ủy ban kiểm toán. Ngoài ra, việc thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác như hệ thống pháp luật, đường lối phát triển của đất nước, vai trò của các tổ chức Đảng, Đoàn thể và tập thể người lao động trong tập đoàn. Có thể xem xét đến các vấn đề về môi trường kiểm soát trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, về đặc thù quản lý: Đặc thù quản lý chịu sử ảnh hưởng lớn bởi triết lý và phong cách của nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp, triết lý và phong cách điều hành của công ty mẹ với công ty thành viên. Triết lý của nhà quản trị không những bị chi phối bởi vị trí của anh ta với doanh nghiệp dựa trên các mối liên hệ về lợi ích mà còn dựa trên trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm cá nhân. Trong thời gian đầu, do chưa quen với mô hình mới, cơ chế quản lý mới nên việc chuyển đổi tư duy quản lý chưa theo kịp với tình hình thực tế và lề lối quản lý cũ vẫn còn tồn tại. Việc thay đổi tư duy quản lý không chỉ yêu cầu từ phía người quản lý mà cũng còn đòi hỏi từ phía người chịu sự quản lý. Trong các tập đoàn hiện nay, tư duy của cơ chế bao cấp, có quyền nhưng không dám quyết và luôn xin ý kiến của công ty mẹ trong mọi quyết định vẫn còn tồn tại.
Trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, triết lý và phong cách bị ảnh hưởng rất lớn bởi mối quan hệ về sở hữu tài sản, vốn giữa công ty mẹ và đơn vị thành viên. Hiện nay, công ty mẹ trong các tập đoàn sẽ thay mặt Nhà nước quản lý các hoạt động của các đơn vị thành viên, thực hiện việc điều tiết hoạt động của đơn vị thành viên thông qua người đại diện vốn. Các hoạt động sản xuất kinh doanh được giao cho các công ty thành viên trực tiếp thực hiện. Chẳng hạn với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, công ty mẹ là sẽ quản lý các hoạt động dầu khí và đầu tư tài chính của các đơn vị thành viên. Điều này tạo ra những khó khăn trong việc điều phối vốn, tài sản, kiểm soát chi tiêu, phát hiện và xử lý sai phạm. Đây là mô hình lựa chọn phù hợp với
giai đoạn đầu khi mới hình thành tập đoàn. Tuy nhiên, xu hướng của các tập đoàn trên thế giới là công ty mẹ cũng cần có các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.
Liên kết trong các tập đoàn vẫn dựa trên các liên kết ngang và được thực hiện theo cách thức "ràng buộc" pháp lý về tổ chức hoạt động theo quy định của nhà nước. Điều này dẫn tới khó khăn trong quản lý vốn giữa công ty mẹ và đơn vị thành viên. Nhà quản lý của công ty mẹ nói chung có xu hướng không thực hiện đúng chức năng của mình. Nhà quản lý của công ty mẹ phải thực hiện chức năng quản lý với công ty mẹ thì nay lại chuyển sang quản lý đối với các công ty con như một cơ quan quản lý hành chính cấp trên. Điều này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh nếu không sẽ ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý.
Thứ hai, về cơ cấu tổ chức quản lý: Cơ cấu tổ chức quản lý trong các tập đoàn đã được phân tích cụ thể trong phần trên. Tuy nhiên, khi đề cập đến cơ cấu tổ chức quản lý là một yếu tố của môi trường kiểm soát trong hệ thống kiểm soát nội bộ, có thể thấy cơ cấu tổ chức quản lý theo một khuốn mẫu máy móc như hiện nay đối với các tập đoàn tạo ra nhiều khó khăn. Hiện nay, các tập đoàn đang chủ yếu tổ chức theo mô hình mẫu trong Luật Doanh nghiệp và Nghị định 39/CP của Chính phủ và Nghị định 111/2007/NĐ-CP. Việc tổ chức theo mô hình này mà không xét đến đặc điểm hoạt động của ngành, của hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra sự kém linh hoạt của bộ máy quản lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 10
- Đặc Điểm Về Cấu Trúc Tổ Chức Và Bản Chất Liên Kết Của Các Tập Đoàn Kinh Tế Của Việt Nam
- Đặc Điểm Tổ Chức Quản Lý Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Tập Đoàn Kinh Tế Của Việt Nam
- Qui Chế Kiểm Toán Nội Bộ Trong Các Tập Đoàn Kinh Tế Của Việt Nam
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 15
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
Trong các tập đoàn, công ty mẹ đóng vai trò là người chủ trì điều hành kế hoạch phối hợp kinh doanh của các đơn vị thành viên: Liên kết các công ty con sản xuất cùng khu vực, kiên kết sử dụng dịch vụ giữa các công ty con sản xuất và công ty con cung cấp dịch vụ. Điều này góp phần làm tăng sức mạnh của các tập đoàn cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Tuy nhiên có thể thấy rằng, việc ghép các công ty một cách "khiên cưỡng" theo mô hình được trình bày ở phần trên đôi khi làm phát sinh mâu thuẫn và làm cho quản lý trở nên không hiệu quả.
Theo kết quả điều tra của tác giả đối với 8 tập đoàn, các tập đoàn chủ yếu lựa chọn phương án thứ hai trong Điều 37 của Nghị định 111/2007/NĐ-CP làm cơ sở xây dựng mô hình: "Văn phòng, cơ quan quản lý của tổng công ty và các công ty thành viên hạch toán phụ thuộc có vị trí then chốt trong tổng công ty hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chính của tổng công ty được tổ chức lại thành công ty mẹ" [8]. Thực ra mô hình này chỉ phù hợp với các tập đoàn hoạt động đơn ngành và được hình thành từ những tổng công ty hạch toán toàn ngành. Để hoạt động chủ động hơn,
công ty mẹ không chỉ là đơn vị thực hiện sự chỉ đạo, điều phối mà còn thực hiện sản xuất kinh doanh theo phương án thứ nhất được quy định trong Điều 37 của Nghị định 111/2007/NĐ-CP:
Văn phòng, cơ quan quản lý của tổng công ty, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp cùng với một hoặc một số công ty thành viên hạch toán độc lập có vị trí then chốt trong tổng công ty hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chính của tổng công ty được tổ chức lại thành công ty mẹ. Trường hợp chuyển đổi, tổ chức lại tổng công ty có quy mô lớn mà thấy không cần thiết phải gộp một hoặc một số công ty thành viên hạch toán độc lập vào thành công ty mẹ, thì có thể tổ chức văn phòng, cơ quan quản lý của tổng công ty, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp trở thành công ty mẹ [8].
Đối với các công ty con được tổ chức dưới dạng Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con hiện nay, đa số các công ty này cũng đang hoạt động dựa trên mô hình công ty mẹ chỉ đơn thuần đầu tư tài chính mà không thực hiện sản xuất kinh doanh. Thực trạng trên là do sự chuyển đổi không toàn diện từ mô hình hoạt động của các tổng công ty. Khi công ty mẹ không có hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp sẽ gây những bất cập về vai trò của công ty mẹ với các công ty con. Một vấn đề nữa trong cơ cấu tổ chức của các tập đoàn là các doanh nghiệp thành viên đều hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này cũng thông qua đại hội cổ đông hay hội đồng thành viên lựa chọn mô hình kinh doanh. Một số đơn vị lựa chọn mô hình kinh doanh đa ngành dẫn đến sự trùng lắp trong chức năng nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh. Xét trên một chừng mực nhất định có thể tạo ra sự cạnh tranh nội bộ với nhau. Trong trường hợp này, một hệ thống kiểm soát nội bộ dù có hiệu quả đến đâu thì hoạt động kiểm soát cũng không thể thực hiện một cách toàn diện. Khắc phục nhược điểm này về cơ cấu hoạt động, giảm các rủi ro kiểm soát là nhiệm vụ của KTNB. Muốn thực hiện được điều này, KTNB trong các tập đoàn phải mở rộng phạm vi hoạt động truyền thống của các tổng công ty, chuyển hướng sang các lĩnh vực phi tài chính như rủi ro hoạt động, cơ cấu hoạt động.
Thứ ba, về chính sách nhân sự: Chính sách nhân sự của các tập đoàn hiện nay rất được chú trọng. Nguồn nhân lực trong các tập đoàn được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên sâu. Các tập đoàn đều có cơ chế khuyến khích nhân viên trau dồi kiến thức thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu. Hiện nay, tất cả các tập
đoàn (8/8 tập đoàn được khảo sát) đều có bộ phận đào tạo thực hiện nhiệm vụ thiết lập kế hoạch đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo và kiểm soát các chương trình đó. Hơn nữa, nhiều tập đoàn còn trích lập các quỹ phục vụ cho mục đích đào tạo và huấn luyện nhân viên.
Việc quy định rõ chức năng, quyền hạn của các vị trí trong bộ máy quản lý theo quy định trong Luật Doanh nghiệp và trong Nghị định 111/2007/NĐ-CP tạo ra một hành lang cho các chính sách nhân sự rõ ràng trong các tập đoàn. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn mang tính chất dập khuôn theo những quy định của Nhà nước mà chưa có sự linh hoạt. Việc chấp hành các quy định này của Nhà nước vẫn mang tính chất hoạt động của các tổng công ty nhiều hơn là tập đoàn kinh tế.
Trong một số tập đoàn, để tăng tính linh hoạt và đưa ra các quyết định nhanh hơn, trong hội đồng quản trị có thể có đại diện của Chính phủ. Có thể đơn cử trường hợp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Chính phủ đã tăng cường nhân sự cho Hội đồng quản trị Tập đoàn Dầu khi Việt Nam bằng việc cử hai lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Công thương vào Hội đồng quản trị Tập đoàn. Tuy nhiên, kỳ vọng giảm bớt thời gian cho các quyết định kinh doanh thông qua việc rút ngắn thời gian trình Thủ tướng Chính phủ và các Bộ ngành vẫn chưa được thực hiện hiệu quả. Lẽ ra, đối với các vấn đề lớn đã được Hội đồng quản trị của Tập đoàn thông qua để trình lên Thủ tướng Chính phủ có thể được xem là có ý kiến của 2 Bộ (Bộ Tài chính và Bộ Công thương) nhưng quy trình thực hiện của Tập đoàn không có gì khác biệt với các tập đoàn khác.
Thứ tư, về công tác kế hoạch : Công tác kế hoạc được thực hiện nghiêm túc luôn được coi là công cụ kiểm soát hữu hiệu. Các tập đoàn đều đã xây dựng hệ thống kế hoạch và định mức làm cơ sở quan trọng cho quá trình kiểm soát. Tuy nhiên, công tác kế hoạch trong các tập đoàn hiện nay đều được thực hiện chưa triệt để. Các kế hoạch thường chỉ xây dựng chủ yếu cho toàn doanh nghiệp mà ít chú trọng đến xây dựng kế hoạch cho từng loại hoạt động nhằm kiểm soát cho từng thời kỳ.
Nhìn chung, có thể đánh giá môi trường kiểm soát của các tập đoàn kinh tế đã có những bước tiến lớn so với mô hình hoạt động tổng công ty trước đây. Các quy định pháp lý hiện nay đã thay đổi nhiều về nội dung và định hướng xây dựng tạo cơ sở phát triển các chính sách và thủ tục kiểm soát hữu hiệu trong tập đoàn. Tuy nhiên, môi trường kiểm soát cũng còn có nhiều tồn tại mà các tập đoàn phải nỗ lực khắc phục. Các văn bản pháp lý mặc dù có nhiều đổi mới nhưng còn nhiều điểm chưa phù
hợp với thực tế. Các mối quan hệ trong tập đoàn được xây dựng trước hết dựa trên mối quan hệ ràng buộc mang tính bắt buộc từ phía Nhà nước chứ chưa dựa trên nguyên tắc tự nguyện gây những khó khăn không nhỏ cho kiểm soát. Sự can thiệp sâu của Nhà nước, của các bộ ngành vào hoạt động đôi khi tạo ra rào cản vô hình đối với hoạt động của các tập đoàn.
Thủ tục kiểm soát trong các tập đoàn kinh tế.
Các thủ tục kiểm soát được xây dựng trong các tập đoàn thường được cụ thể hóa thành các quy chế hoạt động và quy chế tài chính của tập đoàn. Các thủ tục kiểm soát của các tập đoàn hiện nay đã có nhiều điểm đổi mới đáng kể dựa trên bản chất liên kết về vốn, công nghệ và thị trường của các thành viên trong tập đoàn. Tuy nhiên, các thủ tục này vẫn không tránh khỏi lối mòn đã được tạo ra trong mô hình hoạt động cũ. Nhiều thủ tục kiểm soát vẫn mang tính hành chính giữa công ty mẹ với công ty con. Điều này làm cho các thủ tục kiểm soát trong các tập đoàn vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Hơn nữa, Nhà nước vẫn chưa đưa ra quy chế hoạt động thống nhất cho các tập đoàn. Đây cũng là một điểm bất lợi cho các tập đoàn trong quá trình xây dựng các quy chế hoạt động riêng của mình. Sẽ có nhiều trường hợp các tập đoàn không dám đưa ra các hoạt động cụ thể vì chưa có một hành lang chung cho hoạt động. Hơn nữa, quy chế tài chính được xây dựng trong các tập đoàn cũng đang được xây dựng riêng biệt từng tập đoàn và có nhiều điểm chưa hợp lý. Chẳng hạn, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam áp dụng cơ chế tài chính được quy định trong Nghị định 142/CP của Chính phủ còn tồn tại nhiều bất cập. Bất cập lớn nhất là trong cơ chế Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam được quy định là một doanh nghiệp nhưng cơ chế tài chính lại được xây dựng theo hướng không đảm bảo để tập đoàn là một doanh nghiệp thực sự.
Tính hiệu lực của các thủ tục kiểm soát luôn cần được đảm bảo bằng việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của kiểm soát là nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn. Khi xem xét đến việc xây dựng thủ tục kiểm soát dựa trên các nguyên tắc cơ bản trên, có thể xem xét những khía cạnh sau:
Một là, Việc thực hiện nguyên tắc bất kiêm nhiệm được thực hiện tương đối chặt chẽ. Thực tế này một phần là do có các quy định cụ thể của nhà nước về các vị
trí trong bộ máy doanh nghiệp một phần là do sự đòi hỏi từ phía những người quan tâm đến thông tin tài chính. Theo khảo sát của tác giả, các vị trí chủ chốt trong cả công ty mẹ và công ty con của các tập đoàn đều hạn chế việc thực hiện kiêm nhiệm. Việc thực hiện kiêm nhiệm này chỉ chủ yếu được thực hiện theo Quy chế Người đại diện của các công ty mẹ với công ty con. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một hạn chế là các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên trong hội đồng quản trị, tổng giám đốc, trưởng ban kiểm soát, kế toán trưởng đều khá giống nhau giữa các tập đoàn. Điều này cho thấy sự máy móc trong vận dụng nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong các tập đoàn mà chưa kết hợp với các đặc thù riêng của ngành nghề kinh doanh.
Hai là, Nguyên tắc phân công phân nhiệm trong các tập đoàn cũng tạo ra sự chuyên môn hóa cao trong quản lý. Tuy nhiên, trong các quy chế hoạt động và quy chế tài chính của tập đoàn còn có nhiều điểm cần làm rõ hơn. Các quy chế tài chính trong các tập đoàn vẫn chưa xác định rõ trách nhiệm cao nhất trong từng hoạt động hay lĩnh vực hoạt động. Ràng buộc trách nhiệm là căn cứ để thực hiện các xử lý và kiến nghị từ hoạt động kiểm soát.
Ba là, Nguyên tắc ủy quyền phê chuẩn trong các tập đoàn cũng phát huy tác dụng thiết thực trong ngăn ngừa, phát hiện và xử lý sai phạm. Tuy nhiên cơ chế hoạt động cũ theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nguyên tắc này. Việc điều hành doanh nghiệp theo xu hướng cũ đã gây tốn kém nhiều thời gian, mất cơ hội kinh doanh nhất là những ngành đặc thù như dầu khí, than khoáng sản. Điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả hoạt động cũng giảm đi rất nhiều.
Hệ thống thông tin kế toán
Các tập đoàn kinh tế thường bao gồm các đơn vị thành viên với nhiều loại hình sở hữu khác nhau với tính chất hoạt động và mức độ phụ thuộc khác nhau vào công ty mẹ. Theo phân tích về mô hình tổ chức quản lý nêu trên, các tập đoàn chỉ quản lý hoạt động của các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty có cổ phần chi phối được gọi chung là các công ty con. Về nguyên tắc, báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn phải được tập hợp trên cơ sở các báo cáo của những đơn vị này, còn đối với các đơn vị liên doanh liên kết thì chỉ ghi nhận kết quả hoạt động theo tỷ lệ phần vốn góp. Tuy nhiên, phần lớn các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay vẫn chủ yếu làm tổng hợp báo cáo tài chính chứ chưa hẳn là báo cáo tài chính hợp nhất. Việc chưa áp dụng chuẩn mực kế toán về hợp nhất báo cáo tài
chính của các tập đoàn nhà nước hiện nay đều có sự phê chuẩn của Bộ tài chính. Việc lập Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán được xác định bằng cách cộng ngang số liệu. Sau khi cộng ngang số liệu, tiến hành loại trừ doanh thu bán hàng, giá vốn hàng bán và công nợ nội bộ. Riêng khoản mục "Đầu tư vào công ty con" tương ứng với phần vốn mà công ty con nhận từ công ty mẹ đang ghi nhận trên khoản mục "Vốn đầu tư của chủ sở hữu" của công ty con thì được loại trừ hoàn toàn khi hợp nhất báo cáo tài chính.
Để hợp nhất báo cáo tài chính tập đoàn đòi hỏi các báo cáo tài chính của các đơn vị thành viên phải chính xác, phù hợp và đầy đủ. Tuy nhiên, công tác quản lý tài chính kế toán của các công ty con cũng có nhiều điểm khác biệt do mỗi công ty tổ chức một hệ thống kế toán tài chính khác nhau phù hợp với doanh nghiệp mình. Do đây là giai đoạn đầu tiên của các tập đoàn kinh tế và vẫn chỉ là mô hình thí điểm nên hệ thống chứng từ, hệ thống sổ sách được thiết lập và sử dụng rất khác nhau, không nhất quán. Hơn nữa, việc áp dụng hình thức ghi sổ của các công ty con thường mang yếu tố lịch sử, mỗi công ty áp dụng hình thức sổ kế toán khác nhau, cách thức ghi sổ cũng khác nhau thậm chí áp dụng chương trình phần mềm kế toán khác nhau.
Tổ chức bộ máy kế toán trong các tập đoàn cũng tương đối đa dạng và phức tạp. Số lượng nhân viên kế toán trong bộ phận kế toán phụ thuộc vào quy chế hoạt động và quy chế tài chính của tập đoàn. Việc phân cấp tài chính, phân loại hoạt động trong tập đoàn sẽ quyết định đến số lượng các nhân viên kế toán. Lực lượng cán bộ kế toán tại các đơn vị thành viên trong tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay còn nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác kiểm tra, kiểm soát trong các tập đoàn không được thực hiện thường xuyên. Việc chậm trễ áp dụng chuẩn mực kế toán về hợp nhất báo cáo tài chính cũng một phần là do trình độ của các cán bộ kế toán nhất là đội ngũ làm việc tại các đơn vị thành viên.
Tổ chức KTNB
Theo phân tích ở trên, KTNB rất cần thiết đối với các đơn vị hoạt động với quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, lĩnh vực hoạt động kinh doanh đa dạng. Với các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc tổ chức KTNB không được thực hiện đối với tất cả các tập đoàn. Theo khảo sát của tác giả, trong số 8 tập đoàn kinh tế đã được hình thành chỉ có 5 tập đoàn có tổ chức riêng KTNB trong các doanh nghiệp thành viên, chiếm trên 60%. Các đơn vị thành viên của các tập đoàn tổ chức KTNB chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trên mô hình mẹ con hoặc tổng công ty. Các công
ty thành viên hoạt động với quy mô nhỏ đều không tổ chức KTNB. Về thực trạng tổ chức công tác KTNB và bộ máy KTNB được trình bày chi tiết trong những phần dưới đây.
2.2. TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam
Trong quá trình phát triển, trước những đòi hỏi của thị trường và từ yêu cầu của các cơ quan chức năng, bộ phận KTNB cần được thiết lập trong các tập đoàn như một yêu cầu tất yếu. Điều 36 Nghị định 59/CP của Chính phủ ngày 3/10/1996 về Quy chế Quản lý Tài chính và Hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy định "Kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp nhà nước phải lập đúng thời hạn các báo cáo tài chính và báo cáo thống kê theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp tự tổ chức KTNB báo cáo tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết" [7]. Nghị định này là văn bản pháp lý đầu tiên của Chính phủ xác định loại hình KTNB thực hiện chức năng kiểm tra và duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp như một phần cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ. Tiếp theo Nghị định này, ngày 12/11/1996 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 73-TC/TCDN hướng dẫn lập, công bố công khai và kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra kế toán doanh nghiệp nhà nước. Thông tư này quy định "Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán và có xác nhận đã được kiểm toán của KTNB hoặc kiểm toán độc lập". Theo hướng dẫn trên, các tập đoàn kinh tế mà tiền thân là các tổng công ty nhà nước đã thực hiện kiểm tra kế toán và thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán. Hoạt động tự kiểm tra kế toán trong nội bộ tổng công ty chỉ mới là hình thức sơ khai ban đầu của KTNB. Một số tổng công ty đã thực hiện việc kiểm tra này trên diện rộng với hầu hết các đơn vị thành viên như Tổng công ty Than Việt Nam (nay là Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam), Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam), Tổng công ty Dầu khí Việt Nam ( Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam).
Ngày 28/10/1997, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã có Quyết định Số 832/TC/QĐ/CĐKT ban hành Quy chế KTNB áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Quy chế này đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản, quy định mục đích, phạm vi chức năng, quyền hạn của KTNB trong doanh nghiệp nhà nước. Đây thực sự được