Một Số Đặc Điểm Về Thành Phố Hà Nội


Năm 2007-2009, một nghiên cứu can thiệp nhằm đánh giá hiệu quả của các giải pháp can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV trên PNBD được thực hiện tại tỉnh Vĩnh Long. Các biện pháp can thiệp bao gồm thông tin giáo dục truyền thông thay đổi hành vi, phát BKT sạch và BCS, khám sức khỏe định kỳ 3 tháng/ lần cho PNBD, tổ chức các điểm khám cố định và các đội khám lưu động để khám và điều trị STI cho PNBD. Sau 2 năm can thiệp, hiểu biết về các yếu tố giúp phòng nhiễm HIV tăng đáng kể. Tỷ lệ tự đánh giá có nguy cơ nhiễm HIV tăng từ 48,3% lên 60,3%, tỷ lệ cho rằng chung thủy với 1 bạn tình là một cách tránh lây nhiễm HIV cũng tăng lên đáng kể từ 22,5% lên tới 96%, không sử dụng chung BKT tăng từ 55,5% tới 98,5% (p<0,001). Việc sử dụng BCS cho tất cả các lần QHTD với khách lạ và khách quen trong 1 tháng trước khi phỏng vấn tăng đáng kể (đối với khách lạ tăng từ 56,8% lên 78,2%, đối với khách quen tăng từ 52,5% lên tới 64,5% ), với chồng/ bạn trai cũng tăng từ 17,3% lên 28,8%. Tỷ lệ PNBD tự nguyện đi xét nghiệm HIV trong lần xét nghiệm gần nhất tăng từ 77,5% lên 90,6%. Tỷ lệ người nhận biết được các triệu chứng của STI cũng tăng lên. Khi nhiễm STI, PNBD đã có những thái độ tích cực hơn trong việc đi khám và điều trị. Tỷ lệ người sẽ đi khám tại các phòng khám nhà nước tăng từ 53,1% lên 82,5%, dừng QHTD khi mắc STI tăng từ 49% lên 67,5% và sử dụng BCS trong khi bị bệnh từ 40% lên 76% (p< 0,05). Sau thời gian can thiệp, tỷ lệ nhiễm HIV không giảm (trước can thiệp tỷ lệ nhiễm HIV là 3,5%, sau can thiệp là 6,3%, p> 0,05) [23].

Năm 2007-2008, một can thiệp cho nhóm PNBD ở Hà Tây đã được tiến hành, gồm cung cấp BCS, tăng cường năng lực và cung cấp các dịch vụ khám và điều trị miễn phí STI tại các phòng khám cố định, tổ chức đội khám lưu động cho PNBD ở các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí và tụ điểm bán dâm. Sau can thiệp, tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên của nhóm BDĐP đối với khách lạ và khách quen không thay đổi, nhưng tăng lên đối với bạn tình thường xuyên,


từ 54,6% lên 100 %. Đối với nhóm BDNH, tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên tăng lên khi QHTD với khách lạ (từ 68,2% lên 76,8%) và bạn tình thường xuyên (từ 82,4% lên 92,8%), nhưng không tăng đối với khách quen (60,8% và 64,9%, p=0,22). Tỷ lệ người kể được triệu chứng của STI không tăng sau can thiệp (p >0,05). Tỷ lệ BDĐP dùng BCS trong khi mắc bệnh tăng lên từ 8,3% tới 65,2%, p=0,001, nhưng không thay đổi so với BDNH (45,3% và 45,1%, p=0,97). Sau can thiệp, tỷ lệ PNBD mắc các hội chứng STI như chảy mủ sinh dục, đau bụng dưới, loét sinh dục giảm một cách có ý nghĩa [22].

Một nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV và STI cho nhóm PNBD tại An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp đã được tiến hành từ 2002-2005. Hoạt động can thiệp gồm thông tin giáo dục truyền thông qua hệ thống truyền thanh, cung cấp BCS miễn phí, khám chữa bệnh STI tại chỗ và lưu động miễn phí. Sau can thiệp, những hiểu biết cơ bản về HIV đã được cải thiện rõ ràng. Tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên trong 1 tháng qua trong nhóm BDĐP tăng từ 15,5% lên 51,4%, nhưng trong nhóm BDNH lại giảm từ 36,7% xuống 29,3%, nhưng sự giảm không có ý nghĩa thống kê (p=0,07). Can thiệp không làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và Chlamydia (p> 0,05), nhưng làm giảm tỷ lệ nhiễm lậu (từ 7,4% xuống 2,8%, p< 0,01) [20].

1.6. Một số đặc điểm về thành phố Hà nội

Hà nội là thủ đô của Việt Nam, gồm có 29 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 1 thị xã, 10 quận và 18 huyện, là tỉnh thành có nhiều đơn vị hành chính cấp huyện nhất Việt Nam. Toàn thành phố có diện tích 3.345 km 2 , với dân số năm 2009 là 6.474.200 người, mật độ trung bình là 1.935 người/km2 [47]. Hà nội là một thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm PNBD rất cao so với tỷ lệ nhiễm HIV cuả PNBD chung toàn quốc. Theo số liệu của GSTĐ HIV, tỷ lệ nhiễm HIV ở PNBD giao động khoảng 3-5% từ 2003-2011 [9],


nhưng tỷ lệ nhiễm HIV của PNBD Hà nội duy trì ở 13-16% trong những năm

2003 - 2005 [19].


Bảng 1.1. Một số thông tin về các quận Hà nội



Tên quận


Đơn vị

trực thuộc

Diện tích (km²)

Số lũy tích HIV

ở thời điểm cuối năm

2002

2003

2004

2005

Ba Đình

14 phường

9,22

521

674

865

1020

Hoàn Kiếm

18 phường

5,29

298

426

544

639

Tây Hồ

8 phường

24

277

330

412

469

Long Biên

14 phường

60,38

388

515

691

849

Cầu Giấy

8 phường

12,04

201

263

325

373

Đống Đa

21 phường

9,96

598

807

1075

1284

Hai Bà Trưng

20 phường

9,6

440

625

836

1049

Hoàng Mai

14 phường

41,04

152

242

337

433

Thanh Xuân

11 phường

9,11

171

246

348

433

Hà Đông

17 phường

47,91

78

87

104

122

Cộng các Quận

145 phường

233,55

3124

4215

5537

6671

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Tình trạng nhiễm HIV, các nhiễm trùng lây qua đường tình dục ở phụ nữ bán dâm tại 4 quận Hà Nội và hiệu quả một số biện pháp can thiệp - 6

( Nguồn: Internet và Cục Phòng chống HIV/AIDS) [47]

Bảng 1.1 cho thấy, tại thời điểm cuối năm từ 2002-2005, các quận Hai Bà Trưng và quận Đống đa thuộc nhóm quận có số HIV lũy tích lớn nhất và quận Thanh Xuân và Cầu giấy là 2 quận có số HIV lũy tích thấp nhất (không kể quận Hà đông vì quận này mới được nhập về Hà nội từ 2008)


Tại Hà nội, tình hình hoạt động mua bán dâm rất phức tạp. Các quán karaoke là nơi trực tiếp diễn ra hoạt động mua bán dâm hoặc là nơi diễn ra các hoạt động môi giới bán dâm. Hoạt động bán dâm dưới hình thức gái gọi không có dấu hiệu giảm. PNBD sau một thời gian làm việc tại nhà hàng, khách sạn có khách quen và tụ họp lại với nhau và cùng đi bán dâm cho khách (tự liên lạc, mặc cả, hẹn địa điểm), hoặc tự cho các chủ chứa chủ môi giới, lễ tân khách sạn số điện thoại để khi khách có nhu cầu mua dâm sẽ liên lạc. Ngoài ra PNBD chạy sô cũng khá phổ biến. Chủ môi giới thường thuê một địa điểm để tập hợp 10-15 phụ nữ bán dâm, sau đó in danh thiếp để đưa đến các tụ điểm vui chơi giải trí như quán karaoke, nhà hàng, khách sạn…Khi khách có nhu cầu thì chủ nhà hàng gọi điện thoại để đưa họ đến. PNBD và khách tự thỏa thuận và trả một phần phí cho người môi giới. Hình thức bán dâm cho người nước ngoài diễn ra rất kín đáo. Mọi công đoạn bao gồm thỏa thuận giá cả, trả tiền, địa điểm đều thông qua một má mì điều hành. PNBD đều được mang số để dễ gọi. Nơi diễn ra hoạt động mua bán dâm là thường là các khách sạn lớn nên khó khăn cho công tác kiểm tra kiểm soát của cơ quan chức năng. Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm sự di biến động của dân ở nông thôn lên thành thị làm nhiều thanh niên làm việc xa nhà, nhiều nữ thanh niên không kiếm được việc làm phát sinh nhiều tệ nạn. Thêm vào đó, hoạt động mua bán dâm mang lại lợi nhuận cao nên được nhiều chủ các cơ sở dịch vụ giải trí tận dụng triệt để, việc kiểm tra kiểm soát của các cấp các ngành còn lỏng lẻo, nhiều khách du lịch vào Việt nam có nhu cầu về mua bán dâm [32].

Các tài liệu tham khảo cho thấy PNBD có tỷ lệ nhiễm HIV/ STI cao. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm HIV/STI ở PNBD khác nhau ở từng khu vực, từng quốc gia và từng thời điểm. Các hành vi làm tăng nguy cơ nhiễm HIV/STI bao gồm: tuổi trẻ, có quan hệ tình dục sớm, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết về bệnh, ít


hoặc không sử dụng bao cao su thường xuyên, nhiều khách hàng, SDMT và không chủ động tìm kiếm dịch vụ y tế thường xuyên. Các giải pháp can thiệp có hiệu quả trong công tác phòng chống lây nhiễm HIV/STI ở PNBD bao gồm: chương trình 100% BCS, can thiệp thay đổi hành vi, tăng cường chất lượng dịch vụ STI. Các can thiệp dự phòng HIV/STI cần được điều chỉnh cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể từng vùng, từng địa phương.


CHƯƠNG 2


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Đối tượng

Đối tượng tham gia nghiên cứu là các phụ nữ bán dâm (PNBD) tại cộng đồng Hà Nội. PNBD là những phụ nữ QHTD qua đường âm đạo hoặc hậu môn với bất kỳ người đàn ông nào nhằm mục đích đổi lấy tiền hoặc vật chất ít nhất một lần trong vòng 1 tháng trước cuộc điều tra.

Trong nghiên cứu này, PNBD được chia làm 2 nhóm: bán dâm đường

phố (BDĐP) và bán dâm nhà hàng (BDNH).


Tiêu chuẩn lựa chọn

PNBD từ 18 tuổi trở lên

Tự nguyện tham gia điều tra.

Đồng ý cho khám và xét nghiệm HIV và STI

Tiêu chuẩn loại trừ

PNBD dưới 18 tuổi

Sau khi tham gia, nảy sinh bất kỳ tình huống nào mà theo ý kiến của cán bộ điều tra là có vi phạm thoả thuận tham gia điều tra, khiến sự tham gia của người tham gia không được an toàn, gây khó khăn cho việc diễn giải kết quả điều tra hoặc gây trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu điều tra.


2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại 4 quận nội thành phố Hà Nội: Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Cầu Giấy.


Quận Đống Đa, Hai Bà Trưng là hai quận có số lũy tích HIV lớn nhất và quận Thanh Xuân và Cầu giấy có số lũy tích HIV thấp nhất trong những năm 2002-2005. Như vậy trong 4 quận được chọn có 2 quận có số lũy tích HIV lớn nhất và 2 quận là thấp nhất từ 2002-2005, chúng tôi cho rằng lựa chọn như vậy tốt hơn là chọn 4 quận có số lũy tích HIV cao nhất hoặc cả 4 quận có số lũy tích HIV thấp nhất. Ngoài ra, bốn quận này được coi là các điểm nóng về các hoạt động bán dâm, nơi có nhiều tụ điểm mua bán dâm. Các điểm nóng về hoạt động bán dâm này do nhóm nghiên cứu và các các cán bộ địa phương đề xuất sau đợt đánh giá trước điều tra. Vì lý do này, 4 quận Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Cầu Giấy được chọn làm địa điểm nghiên cứu.

Thời gian nghiên cứu: Từ 2005 -2010.

Điều tra trước can thiệp: 2005-2006 Can thiệp: 2006-2009

Điều tra sau can thiệp: 2009-2010

2.3. Thiêt kế nghiên cứu

Đây là nghiên cứu can thiệp cộng đồng, có so sánh trước sau. Các điều tra trước sau là các điều tra nghiên cứu mô tả cắt ngang với cách chọn mẫu chùm.

2.3.1. Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính toán để phát hiện được sự khác biệt 15% giữa hai vòng điều tra về các hành vi nguy cơ cao là dùng BCS.

Z

1

2P(1P) Z

11 1 2 2

P (1P ) P (1P )

2

Công thức tính cỡ mẫu: (Công thức so sánh tỷ lệ của 2 quần thể, test 1 đuôi, theo phần mềm tính cỡ mẫu của Tổ chức Y tế thế giới Ssize)


1

n D *


(P2


P )2


D = Hệ số ảnh hưởng thiết kế= 1,3


P1 = tỉ lệ ước tính tại thời điểm điều tra năm 2005: 0,6 [107] P2 = tỉ lệ ước tính tại thời điểm 2009 (ước tính = 0,75)

P (P1 P2) / 2

α = 0,05

β = 0,90

Z1-α/2 : Hệ số Z tương ứng với hệ số tin cậy mong muốn (=95%) ; Z1-β : Hệ số Z tương ứng với lực mẫu mong muốn (=90%)

Các điều tra trước và sau can thiệp sử dụng thiết kế chọn mẫu chùm nên cần sử dụng hệ số ảnh hưởng thiết kế để làm tăng cỡ mẫu, tăng độ chính xác. Thông thường, hệ số ảnh hưởng thiết kế có thể chọn từ 1 đến 3. Khung chọn mẫu của nghiên cứu này bao phủ hết các tụ điểm có hoạt động mua bán dâm tại các quận được chọn, việc chọn các chùm lại thực hiện ngẫu nhiên nên các chùm được chọn mang tính đại diện cao. Vì lý do đó, chúng tôi chọn hệ số ảnh hưởng thiết kế là 1,3, vẫn đảm bảo về mặt thống kê và tiết kiệm được nguồn lực.

Theo công thức, kết quả tính thu được là n= 215 PNBD. Với cỡ mẫu ít nhất là 215 PNBD cho mỗi nhóm đối tượng nghiên cứu (BDĐP và BDNH) thì kết quả có thể có độ tin cậy mong muốn.

Trong điều tra trước can thiệp (được thực hiện năm 2005-2006), nhóm đối tượng nghiên cứu gồm 499 PNBD, trong đó 275 PNBD nhà hàng và 224 PNBD đường phố. Điều tra sau can thiệp (2009-2010) đã điều tra 300 PNBD nhà hàng và 300 PNBD đường phố.

2.3.2. Phương pháp chọn mẫu:

Cả điều tra trước can thiệp và điều tra sau can thiệp đều sử dụng phương pháp chọn mẫu chùm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 là xây dựng khung chọn mẫu và chọn chùm; giai đoạn 2 là giai đoạn chọn cá nhân tham gia nghiên cứu.

Giai đoạn 1: Xây dựng khung mẫu và lựa chọn chùm. Lập bản đồ các tụ điểm nơi các cá nhân có thể được tiếp cận và tham gia nghiên cứu.

Xem tất cả 156 trang.

Ngày đăng: 12/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí