Đặc Điểm Và Các Hành Vi Nguy Cơ Của Phụ Nữ Bán Dâm


quan tâm và có một số nghiên cứu đã bước đầu đưa ra được các thông tin và các số liệu cơ bản.

Tỷ lệ nhiễm lậu ở nhóm PNBD khác nhau rất nhiều tùy theo tỉnh và theo thời gian. Năm 2002, GSTĐ STI gắn kết với GSTĐ HIV cho thấy tỷ lệ PNBD bị nhiễm lậu tại Hà Nội là 3%, tại TP Hồ Chí Minh là 0,5% [30], tại Hải Phòng là 5,3% [35]. Nghiên cứu về STI ở PNBD ở Trung tâm xã hội Ba Vì II và Trung tâm phục hồi nhân phẩm Thanh xuân năm 2009 cho thấy tỷ lệ nhiễm lậu ở nhóm này rất thấp (2,1%) [31]. Nghiên cứu năm 2002 cho thấy tỷ lệ nhiễm lậu của PNBD ở Lai Châu là 20,2%, Quảng Trị 24,8%, Đồng Tháp 7,3%, An Giang 5,7% và Kiên Giang là 9,4% [12]. Tỷ lệ nhiễm lậu của PNBD ở Sóc Trăng năm 2003 là 14,9% [106], ở các cơ sở dịch vụ giải trí ở Huế năm 2008 là 30,6% [38].

Bệnh giang mai : Nghiên cứu lồng ghép GSTĐ STI vào GSTĐ HIV năm 2002-2003 cho thấy tỷ lệ nhiễm giang mai trong nhóm PNBD ở Hải Phòng là 2,7% [35], Hà Nội là 4,5%, ở, TP Hồ Chí Minh là 4,5% và Đà Nẵng 3% [30]. Tỷ lệ nhiễm giang mai của PNBD ở Lai Châu rất thấp (1%), cao ở Kiên Giang (13,4%), Quảng Trị (12,9%), Đồng Tháp (11,4%) và An Giang 10,8% [12]. Tỷ lệ này thấp ở Sóc Trăng (3,8%) [106] và ở Huế (2,8%) [38]. Giám sát sinh học gắn kết với giám sát hành vi được Bộ Y tế thực hiện 2005-2006 cho thấy tỷ lệ nhiễm giang mai ở nhóm BDĐP và BDNH tại TP Hồ Chí Minh là 9,1% và 7,3%; tại An Giang là 5,5% và 5,8%; tại Đà Nẵng là 3% và 5,4% ; tại Cần Thơ là 5,6% và 0,3%; tại Hải Phòng là 3,2% và 2,2%; và tỷ lệ nhiễm giang mai thấp nhất ở Quảng Ninh (0,6% ở nhóm BDĐP, 0,5% ở nhóm BDNH) [13].

Chlamydia là một STI khá phổ biến. Tỷ lệ mắc Chlamydia của PNBD tại Sóc Trăng năm 2003 là 48,4% [106]. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu ở các địa điểm khác cho thấy tỷ lệ nhiễm Chlamydia ở PNBD thấp hơn nhiều. Nghiên cứu trên 5 tỉnh khác năm 2002-2003 cho thấy tỷ lệ nhiễm Chlamydia rất thấp ở


Hà Nội (5%), Hải Phòng 3,3%, Quảng Ninh 3%, TP Hồ Chí Minh 6,5% và Đà Nẵng 3,5% [30]. Nghiên cứu khác tại Hà Nội cũng cho thấy chỉ 6,3% PNBD nhiễm Chlamydia (năm 2002) [107] và 7,5% năm 2009[31]. Tại TP Hồ Chí Minh (năm 2005-2006) có 6,4% nhóm BDĐP và 14,2% nhóm BDNH nhiễm Chlamydia [13]. Các nữ nhân viên làm việc tại cơ sở giải trí tại Huế có tỷ lệ nhiễm Chlamydia là 8,2% [38].

1.4.2. Đặc điểm và các hành vi nguy cơ của phụ nữ bán dâm

Tuổi, trình độ học vấn và tình trạng hôn nhân của PNBD

Nghiên cứu ở Campuchia năm 2005 cho thấy phần lớn PNBD trong các nhà chứa đều còn trẻ (tuổi trung bình là 25), trình độ học vấn thấp, có tới 44% chưa từng học qua trường lớp nào. Gần một nửa số họ chưa từng lấy chồng (43%), một nửa ly dị hoặc ly thân (49%) [72]. Nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy PNBD ở cộng đồng tại Quảng Đông có tuổi trung bình là 26 và tuổi quan hệ tình dục lần đầu tiên là 19. Khoảng 50% bắt đầu bán dâm khi 23 tuổi. Trong số PNBD, 51,1% có trình độ học vấn THCS, 0,4% có trình độ cao hơn THPT, 40,8% chưa từng lấy chồng, 60,4% chỉ sống một mình và 39,6% có sống cùng bạn tình [130]. Ở Indonesia, tuổi trung bình của PNBD là 25 tuổi. Họ có trình độ học vấn thấp, 45% số họ hoặc chưa qua trường lớp nào, 57,7% sống ly thân (57,7%), 21,7% sống một mình. Chỉ có 14,1 % có chồng [67].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.

Ở Việt Nam, PNBD thường dưới 30 tuổi, có trình độ học vấn thấp và thường sống độc thân. Nghiên cứu ở 5 tỉnh biên giới Việt Nam cho thấy phần PNBD ở lứa tuổi 20-29 (chiếm 60%), trình độ học vấn thấp (50,8 % có trình độ học vấn tiểu học) [91]. PNBD ở Thái Nguyên có tuổi trung bình là 28,5 tuổi. Đa số chỉ có văn hóa dưới lớp 9, và phần lớn đều vào nghề khi còn rất trẻ (21-23 tuổi) [2]. Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hiền (2010) cho thấy phần lớn PNBD ở Vĩnh Long có tuổi từ 20-29 (chiếm 74%), có trình độ học vấn thấp: THCS chiếm 53,5%, không biết chữ + tiểu học chiếm 36%. Tuổi trung bình là 23,7.


Tình trạng nhiễm HIV, các nhiễm trùng lây qua đường tình dục ở phụ nữ bán dâm tại 4 quận Hà Nội và hiệu quả một số biện pháp can thiệp - 4

Phần lớn họ đều chưa lập gia đình (68,7%) và chỉ có một số ít đang có chồng

(6,8%), còn lại là li dị hoặc li thân (17,8%) [23].

Số khách hàng, bạn tình của PNBD

Số khách hàng của PNBD khác nhau tùy theo địa điểm. PNBD ở Campuchia có khoảng 3,5 khách hàng mỗi ngày. Hơn một nửa (58%) có người yêu. 18% còn có quan hệ tình dục với các khách làng chơi mà họ biết đã từng quan hệ với nam giới. Như vậy có sự đan xen nhau của quần thể nam giới quan hệ đồng tính và PNBD, làm cho nguy cơ lây truyền HIV/STI tăng lên [72].

Tại Quảng Đông (Trung Quốc), trung bình 1 tuần PNBD ở cộng đồng tiếp khoảng 5 khách. Gần một nửa (46,6%) có bạn tình thường xuyên và không phải trả tiền [130]. PNBD ở Indonesia có trung bình 4 khách hàng trong 1 tuần, trong đó PNBD ở nhà chứa có 7 khách hàng, BDĐP đường phố có 3 khách hàng và BDNH có 3 khách hàng. Khoảng một nửa trong số họ (44,6%) có bạn tình lâu dài [67].

Ở Việt nam, số lượng khách hàng của PNBD khác nhau tùy theo tỉnh và tùy theo loại PNBD. PNBD ở Thái Nguyên có khoảng 25 khách hàng/ tháng, trong đó khoảng 9 khách lạ, 13 khách quen [2]. Nghiên cứu tại Hà Nội cho thấy, trung bình 1 ngày BDĐP tiếp 2 khách hàng, còn BDNH tiếp 1,2 khách [107]. Nghiên cứu về hành vi và các chỉ số sinh học trên PNBD năm 2006 cho thấy số khách lạ trong 1 tuần giao động từ 3-6 người, tùy theo từng tỉnh và số khách quen khoảng 2-3 người [13]. Tại Vĩnh Long, trung bình 1 tháng PNBD có 18 khách hàng. Số khách lạ trung bình trong 1 tháng là 8,5và khách quen là 9,7 [23].

Hiểu biết về HIV/STI của PNBD

Có đến 50% PNBD ở Campuchia không cho rằng bản thân họ có nguy cơ nhiễm HIV/STI cao hơn so với người phụ nữ bình thường, thậm chí 26,7% lại cho rằng họ có nguy cơ nhiễm HIV/STI thấp hơn, chỉ 17,2% biết họ có nguy cơ


cao hơn [72]. PNBD trong cộng đồng của Jamaica có kiến thức khá tốt về HIV và cách phòng lây nhiễm HIV. 98,2% cho rằng dùng BCS thường xuyên liên tục và 74% cho rằng chung thủy với 1 bạn tình là các cách có thể ngăn ngừa lây nhiễm HIV [75].

Ở Việt nam, kiến thức về HIV/STI của PNBD khác nhau giữa các tỉnh. PNBD ở Khánh Hòa có hiểu biết rất tốt về HIV. 95% biết đúng cả 3 đường lây truyền HIV, 93% biết đúng 3 cách phòng HIV [34]. Tại Cần Thơ, có tới 93% BDĐP và 96 % BDNH hiểu biết đúng về phương pháp phòng tránh HIV. Tuy nhiên tỷ lệ tự cho rằng bản thân có nguy cơ nhiễm HIV lại không cao (62% BDNH và 51% BDĐP) [3].

Nghiên cứu tại 7 tỉnh (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và An Giang) cho thấy những hiểu biết của PNBD về HIV đều rất tốt: tỷ lệ biết đường lây qua đường máu là 93%, tình dục 98%, mẹ sang con 70%, biết cách phòng lây nhiễm HIV bằng cách chung thủy 93%, dùng BCS đúng cách 99% và không dùng chung BKT 97,5%. Hầu hết họ đều biết vai trò của BCS trong phòng HIV/STI (98-100%) [41]. Tại Thái Nguyên, kiến thức về HIV còn thấp. Chỉ 43,5% có được hiểu biết đúng về tất cả các đường lây của HIV. Nhận thức của nhóm này về HIV/AIDS còn rất thấp: kiến thức tối thiểu chỉ đạt 44,39%, có tới >50% không dùng BCS khi tiếp khách [2].

Nhận thức của PNBD về các triệu chứng của STI cũng thay đổi qua các tỉnh. Triệu chứng chảy mủ được nhiều người cho là triệu chứng của STI nhất (77,8% ở Hải phòng, 63,2% ở Quảng Ninh, 54,1% ở Đà Nẵng). PNBD ở TP Hồ Chí Minh nhận biết về các triệu chứng STI kém hơn các tỉnh khác [13].

Những hiểu biết về HIV và STI của PNBD ở Vĩnh Long không cao. Chỉ có 22,5% biết rằng chung thủy với một bạn tình và 38,5% biết rằng sử dụng BCS là những yếu tố bảo vệ giúp làm giảm lây nhiễm HIV. Hiểu biết về STI của họ cũng rất hạn chế. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ nhận biết được các biểu hiện thường gặp của STI như đau bụng dưới (25,5%) chảy mủ ở cơ quan sinh dục


(22,3%), đi tiểu buốt (16,5%), loét sùi cơ quan sinh dục (5%). Khi nhiễm STI, 51% vẫn tiếp tục QHTD và 60% vẫn không dùng BCS khi QHTD [23].

Tiền sử nhiễm STI và hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của PNBD

Đã từng nhiễm STI là một đặc điểm khá phổ biến trong nhóm PNBD trên thế giới. Tại Campuchia, 47% PNBD đã từng nhiễm STI trong năm trước. Khi mắc bệnh, đa số họ đến khám tại các cơ sở y tế nhà nước (63,7%), 21,5% đến các phòng khám STI của các tổ chức phi chính phủ. Ở một số tỉnh, tỷ lệ đi khám ở bệnh viện nhà nước rất cao (98% ở Banteay, 97% ở Battambang) [72]. Tại Jamaica, 38,2% PNBD bị tiết dịch âm đạo và 20,9% bị loét sinh dục trong năm vừa qua. Khi bị nhiễm STI, họ cũng hay đến khám tại các phòng khám của nhà nước (72,3%) hơn là khám bác sỹ tư (18,1%) [75]. Đối với PNBD ở Indonesia, khi nhiễm STI, khoảng 1/3 số họ (33,2%) đi khám bác sỹ, hơn 1/3 (36,4%) tự mua thuốc điều trị tại các quầy thuốc, 12,2% điều trị bằng y học cổ truyền và 18,3% không điều trị gì [67].

Ở Việt Nam, tiền sử từng nhiễm STI trong PNBD khá phổ biến, chiếm tới 50-60%. Nghiên cứu cú Bộ Y tế năm 2005-2006 cho thấy tỷ lệ PNBD có tiền sử STI trong 12 tháng vừa qua khá cao. Tại TP Hồ Chí Minh, 34,4% có tiền sử chảy mủ sinh dục và 15,6% có tiền sử loét sùi sinh dục. Tại An giang, tỷ lệ có chảy mủ sinh dục là 43,2% và loét sùi sinh dục là 15,2% [13]. Nghiên cứu tại 5 tỉnh biên giới của Nguyen Vu Thuong và CS (2007) cho thấy: khi bị tiết dịch bất thường, 50,6% PNBD đi khám bác sỹ tư, 31% tự điều trị. Chỉ có 60,6% dùng BCS trong thời gian bị bệnh và có 34% không QHTD trong thời gian này [91]. PNBD ở Khánh Hòa có tỷ lệ nhiễm STI trong 6 tháng qua chiếm tới 68%. Khi mắc bệnh, 25,6% tự mua thuốc điều trị ở quầy thuốc, 31,2% đến khám bác sĩ tư nhân [34]. PNBD ở Vĩnh Long khi nhiễm STI, có tới 69,4% tự đi mua thuốc để chữa, 26,5% đi khám y tế tư nhân [23].

Tình hình sử dụng BCS của PNBD


Tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên ở nhóm PNBD khác nhau ở nhiều nơi, nhưng nhìn chung tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên đối với với khách lạ cao nhất, với khách quen thấp hơn và với chồng/ bạn trai thấp nhất.

Tại Campuchia, có 80% PNBD sử dụng BCS thường xuyên với khách hàng trong tuần trước khi được phỏng vấn, nhưng chỉ có 25% PNBD sử dụng BCS thường xuyên với chồng/ bạn trai trong tháng vừa qua [72]. Tại Jamaica, PNBD trong cộng đồng sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với khách hàng phải trả tiền nhiều hơn với khách hàng không phải trả tiền (91,3% so với 30%) [75]. Indonesia là một quốc gia có tỷ lệ sử dụng BCS trong nhóm PNBD thấp. Tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên với khách hàng chỉ đạt 26,8%. Các PNBD trong nhà chứa và BDĐP sử dụng BCS không thường xuyên nhiều hơn so với BDNH [67].

Tỷ lệ PNBD dùng BCS khi quan hệ tình dục với khách hàng ở Việt Nam khác nhau tùy theo tỉnh. Ở Khánh Hòa, 100% PNBD đều sử dụng BCS khi QHTD trong 6 tháng qua [34]. Ở Thái Nguyên, có tới > 50% PNBD không dùng BCS khi tiếp khách và 35,2% không dùng ngay cả khi có dấu hiệu mắc bệnh STI. Chỉ 24,5% số lần QHTD với chồng/ bạn trai có sử dụng BCS [2]. Tỷ lệ sử dụng BCS với khách hàng của PNBD ở Cần Thơ khá cao, 92% BDĐP và 95% BDNH sử dụng BCS thường xuyên với khách lạ trong 1 tháng trước khi được phỏng vấn. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên với bạn tình thường xuyên rất thấp: 21% ở BDĐP và 12% ở BDNH [3]. Ở Hà Nội, tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên trong 1 tháng với khách lạ là 63%, khách quen là 41% và với chồng hoặc người yêu chỉ là 4,8% [107]. Ở Vĩnh Long, tỷ lệ sử dụng BCS liên tục trong 1 tháng với khách lạ thấp (55,2% ở BDĐP và 57% ở BDNH). Tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên trong 1 tháng đối với khách quen thấp hơn nhiều: 41,4% ở BDĐP và 54,4% ở BDNH. Chỉ có 16% BDĐP và 22,4% BDNH sử dụng BCS liên tục trong 1 tháng khi QHTD với chồng [23].


Tình hình sử dụng ma túy của PNBD

Sử dụng ma túy được cho là một hành vi thường gặp ở nhóm PNBD.Tuy nhiên, mức độ sử dụng này rất khác nhau ở các nước khác nhau. Có tới 56,6% PNBD trong cộng đồng ở Jamaica đã từng sử dụng thuốc phiện (marijuana). Những PNBD nhiễm HIV dùng thuốc phiện nhiều hơn so với PNBD chưa nhiễm HIV (27,6% so với 4,1%). 3,6% đã từng tiêm chích ma túy [75]. Điều tra về các hành vi nguy cơ cao trong nhóm PNBD ở Quảng Đông cho thấy không ai trong nhóm này sử dụng ma túy, cocain, nhưng có khoảng 9,75% có sử dụng thuốc lắc [130].

Ở Việt Nam, sử dụng ma túy cũng là hành vi hay gặp trong nhóm PNBD và trong số những người đã SDMT, tỷ lệ tiêm chích khá cao, có thể chiếm tới trên 70%. Tại Khánh Hòa, tỷ lệ PNBD sử dụng ma túy rất thấp (1,1%). Tất cả những người SDMT đều tiêm chích ngay từ đầu và không ai dùng chung BKT [34]. Ở Thái Nguyên, 8,5% đã từng SDMT, trong đó 72% đã tiêm chích [2]. Tại Cần Thơ, 19% BDĐP và 1% BDNH có sử dụng ma túy. Tỷ lệ TCMT trong số những người đã từng SDMT ở BDĐP là 93% và BDNH là 75%. Ở BDĐP, tỷ lệ dùng chung BKT và thuốc hoặc dụng cụ pha thuốc là 10% và 19% [3]. Nghiên cứu về hành vi gắn với các chỉ số sinh học năm 2005-2006 cho thấy nhiều PNBD ở các tỉnh tham gia nghiên cứu có SDMT, nhưng tỷ lệ này khác nhau tùy theo tỉnh. BDĐP Cần Thơ có tỷ lệ SDMT và TCMT cao nhất (tỷ lệ là 18,52% và 17,28%), sau đó đến nhóm BDNH của TP Hồ Chí Minh (tỷ lệ SDMT là 15,23%) và An Giang (tỷ lệ SDMT trong nhóm BDNH là 13,85%) [13]. Trong số PNBD ở Vĩnh Long, 8% đã từng SDMT và 4,5% đã từng TCMT. BDĐP có tỷ lệ TCMT cao gấp 3 lần BDNH (10,3% so với 3,5%, p<0,05).Tỷ lệ sử dụng chung BKT trong vòng 1 tháng là 27,8% [23].

1.4.3. Liên quan giữa các hành vi và nhiễm HIV/STI

Liên quan giữa các hành vi và nhiễm HIV/STI trên thế giới

Theo nhiều nghiên cứu, một số hành vi làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV như trình độ học vấn thấp, hiểu biết kém về HIV/STI, không sử dụng BCS


thường xuyên, có sử dụng ma túy. Một số hành vi có nguy cơ làm tăng lây nhiễm STI gồm tuổi trẻ, thuộc nhóm PNBD đường phố, bắt đầu bán dâm khi còn trẻ tuổi, có nhiều khách hàng và không sử dụng BCS thường xuyên.

Nghiên cứu ở Quảng Đông (2010) cho thấy trình độ học vấn cao và nhận thức tốt về nguy cơ nhiễm HIV là các yếu tố làm giảm nguy cơ mắc STI. Các hành vi như đón khách ở khách sạn hoặc trên đường phố, được trả nhiều tiền cho quan hệ tình dục là các yếu tố có liên quan đến nhiễm STI. Yan Li cũng cho rằng khả năng thuyết phục khách hàng sử dụng BCS có liên quan chặt chẽ đến nhiễm STI [130].

Nghiên cứu ở Jamaica cho thấy các yếu tố như tuổi, sử dụng ma túy, không sử dụng BCS trong lần quan hệ tình dục gần nhất với khách hàng làm tăng nguy cơ nhiễm HIV ở nhóm PNBD. Những người sử dụng BCS với khách hàng trong lần QHTD gần nhất có nguy cơ nhiễm HIV ít hơn 76,5 % [75].

Điều tra về STI và hành vi của PNBD ở Indonesia cho thấy PNBD trong các nhà chứa và đường phố có nguy cơ nhiễm lậu và Chlamydia cao hơn BDNH. Các yếu tố nguy cơ nhiễm lậu và Chlamydia khác bao gồm bắt đầu bán dâm khi trẻ hơn 24 tuổi; mới vào nghề dưới 1 năm, nhiều hơn 4 khách hàng trong 1 tuần, không sử dụng BCS liên tục thường xuyên trong tuần trước khi tham gia nghiên cứu [67].

Liên quan giữa các hành vi và nhiễm HIV/STI tại Việt Nam

Nhiều nghiên cứu đã tìm ra một số hành vi làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/STI, bao gồm tuổi trẻ, đã từng SDMT, không sử dụng BCS thường xuyên, có nhiều khách hàng, có hiểu biết kém về HIV/STI.

Nghiên cứu về HIV và các yếu tố nguy cơ của PNBD ở 3 tỉnh TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và An Giang cho thấy các yếu tố liên quan độc lập với nhiễm HIV gồm dưới 30 tuổi, QHTD hơn 20 lần/ tuần, bị loét sinh dục, bị sùi mào gà,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/11/2022