sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, còn Chính phủ, Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ lập dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách cấp mình và quyết toán ngân sách hàng năm trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Đồng thời Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tổ chức thực hiện ngân sách đã được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định.
Thứ hai, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - tài chính trong nền kinh tế. Thông qua hoạt động kiểm toán tại các đơn vị tiến hành xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán hàng năm.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần thực hiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách nhà nước, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước, đồng thời xử lý các vi phạm trong thu - chi, điều hành và quyết toán ngân sách nhà nước, các vi phạm về hạch toán tài sản, vốn, lãi và phân phối tài chính trong sản xuất kinh doanh;
Thứ tư, góp phần phòng ngừa các sai phạm trong quản lý tài chính, cung cấp thông tin cho công luận về các hoạt động kinh tế - xã hội, thực hành quyền giám sát và thu hút vốn đầu tư cho toàn xã hội.
1.2.1.2. Vai trò của kiểm toán hoạt động tầm vi mô
Vai trò quan trọng của kiểm toán hoạt động không chỉ trong việc chỉ ra các tồn tại, nâng cao chất lượng hoạt động, cải thiện tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực mà còn cải thiện chất lượng đầu ra, cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao chất lượng thông tin và nhất là việc tăng cường trách nhiệm giải trình của toàn bộ các đơn vị được kiểm toán nói chung, cụ thể:
Thứ nhất, chỉ ra các tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại: Mặc dù việc cảnh báo về các vấn đề còn tồn tại là hoạt động thường xuyên trong quản lý nhưng bản thân đơn vị có thể không nhận biết được các hạn chế trong của mình. Quan điểm của kiểm toán với tư cách là bên thứ ba độc lập sẽ đưa ra các đánh giá khách quan và chính xác hơn. Không chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề, vai trò của kiểm toán còn là việc xác định nguyên nhân thực tế
(không chỉ là triệu chứng hay giả thiết) của vấn đề, phân tích các thiếu sót trong hoạt động và đưa ra hướng khắc phục kịp thời.
Có thể bạn quan tâm!
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Kiểm Toán Hoạt Động
- Mục Tiêu Của Kiểm Toán Hoạt Động
- Vai Trò Của Kiểm Toán Hoạt Động Do Kiểm Toán Nhà Nước Thực Hiện
- Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện - 8
- Khái Quát Về Vai Trò Của Kiểm Toán Hoạt Động Của Một Số Nước
- Những Bài Học Về Vai Trò Của Kiểm Toán Hoạt Động Rút Ra Từ Kinh Nghiệm Của Các Nước
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Thứ hai, cải thiện tính kinh tế: Kiểm toán hoạt động giúp cho việc giảm chi phí thông qua cải thiện tổ chức hoạt động, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực và các nguồn lực khác. Từ việc giảm thiểu chi phí và loại bỏ các chi phí bất hợp lý, kiểm toán hoạt động giúp loại trừ lãng phí và hoạt động thiếu hiệu quả, thực hiện các quy trình mua sắm hoàn thiện hơn.
Thứ ba, nâng cao tính hiệu quả: Thông qua việc giúp đơn vị được kiểm toán cải thiện bộ máy hoạt động, tạo dựng mối liên kết trong quy trình hoạt động nhằm tối ưu hoá nguồn lực, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra kiểm toán hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động và điều hành hoạt động của đơn vị.
Thứ tư, tăng cường tính hiệu lực: Bằng việc làm rõ mục tiêu, chính sách của đối tượng kiểm toán, định hướng các mục tiêu hoạt động của đơn vị phù hợp với mục tiêu chung của tổ chức, chính phủ… kiểm toán hoạt động giúp cho việc quản lý, thực hiện công việc đi đúng mục tiêu, công tác điều hành của đơn vị được kiểm toán có hiệu lực, nâng cao chất lượng đầu ra để đạt được mục tiêu cuối cùng một cách tốt nhất; xác định các tiêu chí để đo lường việc đạt được mục tiêu của hoạt động hoặc tổ chức.
Thứ năm, kiểm toán hoạt động giúp cho việc cải thiện chất lượng đầu ra thông qua việc giảm thiểu thời gian cung cấp sản phẩm, dịch vụ; giảm bớt công đoạn không cần thiết; thúc đẩy việc kiểm soát chất lượng công việc, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm đầu ra; tạo sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ công; nâng cao chất lượng thông tin.
Thứ sáu, cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ qua đánh giá thông tin quản lý và hệ thống kiểm soát nội bộ: Xác định mức độ đầy đủ và hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc kiểm soát tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của tổ chức, chỉ ra các điểm yếu trong hệ thống kiểm soát nội bộ và đưa ra các
giải pháp để khắc phục; kiểm soát và quản lý hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực; cải thiện phương thức quản lý nhằm đạt được hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động; kiểm soát chặt chẽ các gian lận và nâng cao khả năng bảo vệ tài sản.
Thứ bảy, kiểm toán hoạt động giúp cho việc tăng cường trách nhiệm giải trình của đơn vị được kiểm toán; nâng cao tính minh bạch trong giải trình trách nhiệm của các cơ quan trước pháp luật và công chúng; đưa ra các chỉ số thực hiện chính xác và hữu hiệu hơn; nâng cao khả năng so sánh đối chiếu giữa các đơn vị cùng chức năng hoạt động; cung cấp thông tin rõ ràng và chứa lượng kiến thức nhiều hơn; cung cấp thêm một kênh thông tin giữa hoạt động và điều hành hoạt động.
Thứ tám, kiểm toán hoạt động giúp nâng cao chất lượng thông tin, nâng cao tính liên kết và có định hướng của thông tin; cập nhật thông tin liên quan đến hiệu lực của các đơn vị, tổ chức, hoạt động của chính phủ; tạo lập cơ sở thông tin tin cậy cho các quyết định hoặc các giải pháp. Mặt khác, kiểm toán hoạt động còn báo cáo tính tuân thủ trong hoạt động của đơn vị; cung cấp các thông tin độc lập, khách quan trong đánh giá hoạt động. Tính tuân thủ được xem xét trên cả việc tuân thủ với yêu cầu pháp luật và tuân thủ mục tiêu, chính sách và thủ tục kiểm soát của tổ chức.
Vai trò quan trọng của kiểm toán hoạt động tầm vi mô được thể hiện đầy đủ và toàn diện nhất là tại các đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính, đó là các đơn vị sự nghiệp có thu được nhà nước thành lập nhằm mục đích chủ yếu là để thực hiện các chức năng nhiệm vụ cụ thể nào đó của nhà nước thông qua việc cung cấp hàng hoá cho cộng đồng và xã hội, trong đó phần tự thu đã đảm bảo được toàn bộ hoặc một phần chi phí hoạt động thường xuyên, nhà nước không phải cấp hoặc chỉ cấp một phần kinh phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị. Trong điều kiện đó, kiểm toán hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính là hết sức cần thiết và có ý nghĩa trên nhiều mặt, cụ thể:
Một là, mang lại lợi ích cho nhà nước và xã hội được thể hiện:
Góp phần sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhà nước đầu tư vào lĩnh vực sự nghiệp, tạo điều kiện và tiền đề để từng bước xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập. Đồng thời khai thác hợp lý các nguồn lực của xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội. Kiểm toán hoạt động đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính trước hết nhằm mục tiêu đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực của nhà nước đầu tư đạt được hiệu quả, hiệu lực; trên cơ sở đó đảm bảo được lợi ích của nhà nước, đồng thời đảm bảo được hiệu lực hoạt động của tổ chức sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính có nghĩa là cung cấp được những dịch vụ có ích cho xã hội thông qua con đường trao đổi (ngang giá hoặc thấp hơn giá trị). Như vậy, từ việc đảm bảo sử dụng hiệu quả, hiệu lực nguồn lực nhà nước, tạo cơ sở huy động được nguồn lực xã hội vì lợi ích công cộng, đó cũng có nghĩa là tạo nên sự gia tăng bội số của lợi ích công cộng do sự đầu tư “khởi phát ” của nhà nước.
Góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính. Cơ chế quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính chủ yếu là cơ chế quản lý tài chính mới được hình thành bước đầu trong thời gian gần đây (năm 2002). Trong điều kiện áp dụng đối với một loại hình tổ chức rất đa dạng về lĩnh vực hoạt động, về nguồn lực, về nhu cầu thị trường...; do vậy việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính là một đòi hỏi tất yếu, cấp bách, vì lợi ích công cộng. Chính trong điều kiện đó Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt động sẽ là một công cụ hết sức hữu hiệu để đánh giá một cách có hệ thống hiệu lực, hiệu quả của các chế độ, chính sách áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính, tìm nguyên nhân và kiến nghị với nhà nước để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các đơn vị này.
Củng cố lòng tin của nhân dân vào nhà nước. Nhân dân là người chủ sở hữu thực các nguồn lực mà nhà nước quản lý. Việc tiến hành kiểm toán
làm minh bạch các quan hệ tài chính và đánh giá một cách khách quan, công khai việc sử dụng các nguồn lực nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp công thực hiện tự chủ tài chính - một lĩnh vực hoạt động mà những hàng hoá dịch vụ của nó cung cấp trực tiếp đến người dân, là một cơ sở rất quan trọng để củng cố lòng tin của nhân dân vào nhà nước, một trong những mục đích khẳng định cần thiết tồn tại của loại hình kiểm toán hoạt động trong quá trình phát triển của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Hai là, mang lại lợi ích đối với các đơn vị được kiểm toán thể hiện:
Giúp cho các đơn vị kiểm soát đạt được các mục tiêu quản lý và mục tiêu hoạt động đã đề ra. Một trong những mục tiêu của kiểm toán hoạt động là đánh giá tính hiệu lực trong hoạt động của đơn vị, đây cũng chính là việc đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu hoạt động của đơn vị. Để thực hiện được mục tiêu kiểm toán đó, thông thường kiểm toán viên phải xác định những tiêu chuẩn cụ thể, khách quan để làm thước đo đánh giá. Qua đó đánh giá đúng đắn việc thực hiện mục tiêu của đơn vị, phát hiện ra những mặt hạn chế để đơn vị có những thay đổi hợp lý trong quản lý đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu đề ra.
Giúp đơn vị thực hiện đúng đắn quy trình hoạt động thúc đẩy việc kiểm soát chất lượng công việc và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực của đơn vị, kiểm tra đánh giá tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của đơn vị cũng như việc sử dụng các nguồn lực đầu vào một cách tiết kiệm là một trong những nội dung quan trọng của kiểm toán hoạt động. Những hoạt động này của đơn vị thường được thực hiện theo một cách nhìn chủ quan. Khi một kiểm toán viên với một cách nhìn khách quan cùng với việc xây dựng những tiêu chuẩn đánh giá cụ thể, có độ tin cậy cao sẽ tác động tích cực đến hoạt động của đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng của việc kiểm soát sử dụng các nguồn lực.
Giúp cho đơn vị hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu quả quản lý. Xuất thân từ các đơn vị hành chính sự nghiệp được bao cấp, hầu hết các
đơn vị sự nghiệp công khi được giao quyền thực hiện tự chủ tài chính, đều chưa chú trọng đến việc hình thành và củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ mà đây lại là yếu tố xương sống của quản lý. Do vậy, với việc đánh giá một cách có hệ thống đối với hoạt động kiểm soát nội bộ và tư vấn cho đơn vị, kiểm toán hoạt động sẽ góp phần giúp cho đơn vị củng cố và nâng cao hiệu quả quản lý.
Giúp đơn vị phân tích những khiếm khuyết, những phần việc, bộ phận trọng yếu “có vấn đề”, tìm nguyên nhân để khắc phục. Với đặc tính của kiểm toán là chú ý đến những vấn đề trọng yếu, xem xét rủi ro kiểm toán và lượng hoá những tác động, hạn chế, khiếm khuyết, kiểm toán viên có thể giúp đơn vị thấy rõ những mặt hạn chế, nguyên nhân và những hậu quả của nó cũng như những giải pháp khắc phục, qua đó có thể mang lại những lợi ích to lớn cho đơn vị.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của kiểm toán hoạt động do kiểm toán nhà nước thực hiện
1.2.2.1. Môi trường pháp lý
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước kể từ khi Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực (năm 2006) đến nay đã thu được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực song môi trường pháp lý, cơ chế chính sách, hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán...cũng còn không ít bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kiểm toán nói chung, kiểm toán hoạt động nói riêng, thể hiện qua một nội dung sau:
Thứ nhất, Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước và Tổng Kiểm toán Nhà nước
Như chúng ta đã biết, hiến pháp là đạo luật cơ bản của mọi nhà nước, quy định cơ sở nền tảng của nhà nước, gồm: chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Do vậy, những quy định của Hiến pháp thể hiện tầm quan trọng và có mức độ khái quát cao. Ở các nước, dù Kiểm toán Nhà nước đã có lịch sử hàng trăm năm hay mới thành lập, địa
vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước đều được quy định trong hiến pháp vì nó liên quan trực tiếp đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước. Những quy định về Kiểm toán Nhà nước trong hiến pháp của các nước có nội dung cụ thể khác nhau song đều quy định các nội dung cơ bản như: Vị trí của hoạt động kiểm toán và của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kiểm toán... Vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp ở một số nước trên thế giới được thể hiện như sau:
Hiến pháp Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Điều 91 quy định:
Quốc vụ viện lập một cơ quan Kiểm toán Nhà nước để kiểm toán và kiểm tra các khoản thu, chi của các cơ quan thuộc Quốc vụ viện, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức tài chính và tiền tệ của nhà nước, các cơ quan và xí nghiệp...[85].
Hiến pháp Nhật Bản, Điều 90 quy định:
Báo cáo quyết toán về các khoản chi phí và thu nhập của nhà nước hàng năm sẽ được Uỷ ban Kiểm toán kiểm toán và Nội các của Chính phủ sẽ trình báo cáo đó lên Quốc hội cùng với các báo cáo kiểm toán trong năm tài chính ngay sau khi niên độ đó kết thúc. Cơ cấu và quyền hạn của Uỷ ban Kiểm toán do luật quy định[86].
Hiến pháp Hàn Quốc, Điều 97 quy định:
Thành lập Cục Kiểm toán trực thuộc Tổng thống để kiểm tra quyết toán các khoản thu, chi của nhà nước và các quyết toán khác của nhà nước và các cơ quan khác được lập ra theo luật định cũng như hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và công chức của nó[87].
Hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Đức, Điều 114, Khoản 2 quy định: Kiểm toán Nhà nước Liên bang, với các ủy viên kiểm toán có tính độc lập như các thẩm phán kiểm tra báo cáo quyết toán cũng như
tính tuân thủ và tính hiệu quả của công tác quản lý ngân sách và quản lý kinh tế. Hàng năm, ngoài trách nhiệm báo cáo với Chính phủ Liên bang, Kiểm toán Nhà nước Liên bang có trách nhiệm báo cáo trực tiếp với Quốc hội Liên bang và Hội đồng Liên bang. Ngoài ra, các quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước Liên bang được quy định tại Luật Liên bang[88]...
Tại Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước được thành lập (1994) sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992. Tại thời điểm đó Hiến pháp chưa quy định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước. Mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khoá X sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Kiểm toán Nhà nước cũng đã nhiều lần đề nghị, nhưng địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước vẫn chưa được quy định do việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 chỉ tập trung vào những nội dung đã rõ và đã có sự nhất trí cao. Mặc dù vậy, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước cũng ngày càng được hoàn thiện hơn, trước hết đó là Luật Kiểm toán nhà nước ra đời và có hiệu lực ngày 01/01/2006. Luật đã xác định “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”[81,15]. Điều này đã khẳng định được vai trò quan trọng của Kiểm toán Nhà nước trong lĩnh vực kiểm tra tài chính công. Sự thay đổi địa vị pháp lý từ cơ quan trực thuộc Chính phủ sang cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập được quy đinh trong Luật Kiểm toán nhà nước đã từng bước nâng cao hơn tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, đảm bảo Kiểm toán Nhà nước là cơ quan độc lập trong kiểm tra, giám sát tài chính nhà nước. Quy định về địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán Nhà nước như trên, cơ bản đã phù hợp với Điều 5 Tuyên bố Lima “Cơ quan Kiểm toán Tối cao chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách khách quan và hiệu quả khi nó có vị trí độc lập với đơn vị