Đặc Điểm, Vai Trò, Giá Trị Của Tín Ngưỡng Thờ Nguyễn Trung Trực Ở Nam Bộ Và Một Số Bàn Luận

chung chung) tại các địa phương. Việc này đáp ứng nhu cầu tâm linh thiết thực của cư dân sở tại là có một vị thần là AHDT để phụng thờ. Sau thời kỳ Đổi mới, các ngôi đình, ngôi thờ, di tích được xây dựng kiên cố. Chủ thể văn hóa đông đảo, đa dạng thành phần gắn tín ngưỡng với các hoạt động hội. Bên cạnh những thay đổi đó, nhiều ngôi đình, lúc đầu thờ thần Thành Hoàng chung của làng như các đình ở huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, qua thời gian đã thay đổi thành đình thờ Nguyễn Trung Trực.

Đến nay, đình Nguyễn Trung Trực trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân, nhất là nhân dân vùng sông nước. Chính vì vậy, lễ hội Nguyễn Trung Trực ngày càng được chính quyền, người dân quan tâm, trở thành ngày hội văn hóa ở các địa phương. Bên ngoài ngôi chính điện, đình Nguyễn Trung Trực dần được người dân tích hợp thờ cúng Thần Nông, Thổ Địa, Ngũ Hành nương nương, Bạch Hổ. Theo truyền thuyết, Thần Nông dạy dân làm ruộng, chế ra cày bừa, người đầu tiên tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, đồng thời phát triển nghề thuốc chữa bệnh. Ngũ Hành nương nương gồm năm bà Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là năm yếu tố cơ bản của tự nhiên theo qui luật tương sinh tương khắc để kiến thiết vạn vật, giúp muôn loài phát triển. Miếu Bà Ngũ Hành được lập ở nhiều nơi trong thôn xóm, khuôn viên các đình, chùa. Thổ Địa (Thổ Công, Thổ Thần) cai quản một vùng đất nào đó. Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá. Phía trước, xung quanh đình Nguyễn Trung Trực ở các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, người dân lập một số miếu nhỏ thờ các vị thần trên. Việc này chứng tỏ tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực thu hút các tín ngưỡng dân gian khác trong khuôn viên đình. Vận động và biến đổi là quy luật chung cho mọi sự vật hiện tượng, tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực không là ngoại lệ. Tuy nhiên, do những đặc điểm về địa - văn hóa, tín ngưỡng này có sự khác biệt so với các tín ngưỡng thờ AHDT ở miền Trung, miền Bắc. Tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực được mở rộng, trang nghiêm hơn khi tích hợp với tôn giáo. Từ niềm tin, ngưỡng vọng, phật tử Bửu Sơn Kỳ Hương trước kia, Phật giáo Hòa Hảo sau này trân trọng, tôn thờ Nguyễn Trung Trực. Hình tượng của Ông không những được thờ phụng, chăm nom, hương khói, cơm nước hàng ngày mà còn đi vào trong kinh kệ của đạo, trở nên ngang hàng với Phật, với Đức Thầy. Trong tư tưởng, tình cảm của phật tử; Ông là quan Thượng đẳng đại thần trong các tôn giáo thuộc hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Đến ngày lễ hội Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá ( Kiên Giang) cũng như ở Tân Trụ (Long An), người dân theo đạo từ An Giang đến dự với tấm lòng thành kính, tôn thờ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vai trò của Nguyễn Trung Trực không mai một mà ngược lại ngày càng được nâng cao và khẳng định vị trí vững chắc trong đời sống của phật tử,

của nhân dân Nam Bộ. Điều này không chỉ thể hiện qua các hình thức thờ tự, khấn nguyện tại gia mà còn được chứng minh trong các dịp lễ giỗ - lễ hội Nguyễn Trung Trực tại các địa phương.

TIỂU KẾT

Trong chương 3, luận án đã tập trung khảo sát sự hình thành, phát triển các cơ sở thờ tự Nguyễn Trung Trực, những biến đổi và nguyên nhân biến đổi tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực ở Nam Bộ. Qua khảo sát và phỏng vấn sâu, các di tích thờ Nguyễn Trung Trực được nhân dân xây dựng khắp Nam Bộ, tập trung ở phía Nam sông Hậu. Hầu hết các đình, lúc đầu nhân dân dựng lên bằng tre, lá, phải che mắt giặc bằng nhiều cách trong việc thờ phụng, dần dần các cơ sở thờ tự được nhân dân đóng góp xây dựng kiên cố. Theo thời gian có đình được xây dựng vào thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX được tu sửa nhiều lần, có đình được xây dựng sau thời kỳ đổi mới, hoặc đổi tên đình cũng trong thời kỳ này. Trong đời sống văn hóa từ xưa đến nay, việc thờ phụng Nguyễn Trung Trực là xuyên suốt và không ngừng mở rộng, tín ngưỡng thờ Ông lan tỏa cả vùng Nam Bộ. Việc này chứng tỏ, Nguyễn Trung Trực luôn được cộng đồng ngưỡng vọng, tôn vinh, thể hiện cụ thể bằng số lượng các đình, các di tích thờ Ông và với số lượng người tham gia cúng giỗ tại các địa phương đông đảo và đa dạng về thành phần. Hằng năm, đến lễ giỗ, lễ hội có hàng triệu lượt người tham dự ở những nơi có các cơ sở thờ Nguyễn Trung Trực ở Nam Bộ. Hệ thống đình, khu tưởng niệm Nguyễn Trung Trực được người dân lập nên để tôn thờ Ông như một vị phúc thần cùng các danh tướng kháng Pháp, mặc dù sự nghiệp của Ông không phải là lớn nhất, song tinh thần và khí phách Nguyễn Trung Trực thấm sâu trong lòng người Nam Bộ. Từ lâu, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực và các dạng thức liên quan là tín ngưỡng chính chi phối đời sống văn hóa xã hội của cư dân Nam Bộ, là sợi dây cố kết cộng đồng cư dân trên địa bàn. Ông được nhân dân kính trọng, tôn thờ không những ở đình, đền mà còn được tôn vinh, tưởng nhớ ở đền, chùa, thậm chí thờ tại gia.

Với ý nghĩa thiêng liêng, tín ngưỡng thờ phụng Nguyễn Trung Trực sẽ luôn tồn tại trong đời sống văn hóa của cư dân Nam Bộ. Nhân dân vẫn luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Ông trong đời sống tâm linh. Về cơ bản, các nghi lễ cũng như tổ chức lễ hội thực hiện theo truyền thống, các nơi thực hiện đậm nhạt không đồng đều, nhưng điểm chung là tổ chức giản tiện, thường theo lệ cũ thực hiện. Tuy nhiên, cũng như nhiều hiện tượng văn hóa khác, tín ngưỡng thờ phụng Nguyễn Trung Trực không phải là hiện tượng

bất biến mà nó luôn vận động và biến đổi gắn liền với chủ thể văn hóa, song hành cùng với những biến chuyển của đời sống xã hội và môi trường sản sinh ra nó. Các nghi thức cũng như cấu trúc có thay đổi không nhiều, thời gian lễ hội/lễ giỗ tổ chức không thống nhất, sự thay đổi nhiều là ở các hoạt động hội. Nguyên nhân của sự biến đổi là do sự thay đổi trong chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ về văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng; thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội đã mang đến cho tỉnh thành Nam Bộ những cơ hội và thách thức mới; bên cạnh đó nhận thức của nhân dân trong việc phục hồi, duy trì các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống, trong đó có hiện tượng thờ phụng AHDT Nguyễn Trung Trực.

Các hoạt động tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Từ sự biến đổi và kết quả khảo sát thực địa, tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực có khuynh hướng tích hợp với các tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Các khuynh hướng này sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng trong thời gian tới. Các cơ sở thờ tự sẽ được tôn tạo, những nghi lễ mới sẽ được giản lược, cải biên, bổ sung bên cạnh sự sáng tạo trong cơ cấu tổ chức quản lý và điều hành lễ hội. Hoạt động hưởng thụ văn hóa ngày càng gia tăng thể hiện ở số lượng người tham gia cũng như các chi phí cho từng nghi lễ. Các hoạt động bảo tồn, giáo dục, trao truyền văn hóa tiếp tục được duy trì và phát triển trong điều kiện đời sống văn hóa mới. Những biến đổi của các sản phẩm văn hóa trên cả bình

diện vật chất và tinh thần với sự kế thừa, bổ sung nhiều yếu tố văn hóa mới để phù hợp với đời sống xã hội đương đại.

CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, GIÁ TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở NAM BỘ VÀ MỘT SỐ BÀN LUẬN

4.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ NGUYỄN TRUNG TRỰC

Qua tổng hợp tư liệu và điền dã thực tế tại địa bàn, NCS nhận thấy tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực và các dạng thức liên quan có những đặc điểm sau:

4.1.1 Anh hùng Nguyễn Trung Trực – vị nhân thần của cư dân Nam Bộ

Tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực thể hiện giá trị đạo đức truyền thống. Nó là kết quả kết tinh từ một quá trình dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài của lịch sử, có những anh hùng được vua ngự ban, cũng có những người được nhân dân phong tặng. Song, như một quy luật của văn hóa, những gì do nhân dân sáng tạo, chấp nhận và gìn giữ thì có sức sống trường tồn với thời gian. Ở Việt Nam, mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng, rộng hơn, trong cộng đồng nhân dân thờ Thành hoàng. Việc thờ cúng tổ tiên là tưởng nhớ, tôn kính ông bà, đấng sinh thành, thờ phụng những vị anh hùng là sự biết ơn, tôn kính công đức các bậc tiền nhân. Như trên đã đề cập, Nam Bộ là nơi các lưu dân vùng Thuận Quảng vào khai hoang, lập ấp. Hành trang của họ ngoài những kỹ năng về nông lâm ngư nghiệp còn là vốn văn hóa từ miền trung nắng gió, là các thiết chế văn hóa mang theo vào vùng đất mới. Ban đầu các thiết chế này, nhất là các ngôi đình/ đền chủ yếu thờ các nhiên thần như Thần Nông, Thần Sông, Thần Đất…Về sau, khi dân cư đông đúc, xóm làng trù phú, nơi đây bắt đầu xuất hiện những yếu tố của việc thờ phụng nhân thần mà trước tiên là những người có công khai làng, lập ấp, lập chợ, khẩn điền kế đến là những anh hùng chống giặc ngoại xâm. Sau khi triều đình để mất ba tỉnh miền Tây, phong trào kháng Pháp trong nhân dân nổ ra mạnh mẽ, nhưng các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, các chủ tướng lần lượt rơi vào tay giặc hoặc hy sinh. Sau khi mất, các vị anh hùng kháng Pháp được nhân nhân thương nhớ, tôn thờ, mong họ linh thiêng tiếp tục phù trợ nhân dân với tinh thần Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh (Nguyễn Đình Chiểu).

Việc thờ phụng anh hùng dân tộc đều có điểm chung, đó là những người quật cường, đánh Pháp đến cùng, sẵn sàng hy sinh vì đất nước, là người có công với đất nước, với nhân dân. Từ con người lịch sử, họ trở thành những vị thần linh thiêng phù hộ nhân dân trong đời sống; hầu hết các vị anh hùng dân tộc trở thành phúc thần có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa - xã hội cư dân Nam Bộ; nhân dân tin tưởng thờ phụng ở các cơ sở thờ tự và tại gia với niềm tin và sự kính trọng. Trong đó, việc phụng thờ anh

hùng Nguyễn Trung Trực là tín ngưỡng thờ nhân thần tiêu biểu ở Nam Bộ. Thờ cúng Nguyễn Trung Trực là tiêu biểu, bởi lẽ, trong tương quan với các dạng thức cùng loại của các anh hùng kháng Pháp, số lượng đình, ngôi thờ và các hình thức thờ vọng khác, số người dân thường xuyên thực hành tín ngưỡng là lớn và có phạm vi trải khắp Nam Bộ. Như trình bày ở phần khảo sát, khi thực dân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đến miền Tây Nam Kỳ thì hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của sĩ phu yêu nước diễn ra toàn vùng. Trong đó, nổi bật là cuộc khởi nghĩa của Định, Huân, Dương, Trực. Đó là những người có thật trong lịch sử và trong huyền thoại. Trương Định, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, tất cả các vị đều di vào sử sách, được nhân dân tôn thờ. NCS tiến hành so sánh nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực với các vị anh hùng kháng Pháp cùng thời trong đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ.

4.1.1.1 Sự tương đồng

Nam Bộ có là vùng đất mới, trong việc mở đất, người dân luôn đoàn kết chống lại thú dữ, họ lập làng, theo truyền thống, lập đình để làm nơi sinh hoạt, tập hợp dân để truyền với nhau kinh nghiệm sản xuất, chống thú dữ. Họ thờ nhiên thần lẫn nhân thần làm thần Thành Hoàng của làng. Khi giặc đến họ đoàn kết chống giặc, khi hy sinh vì dân vì nước, họ được dân làng thờ phụng. Những lãnh tụ nghĩa quân, người anh hùng nghĩa đảm, người có công với quê hương sinh vi tướng, tử vi thần dù mất đi, nhưng các vị được nhân dân gửi gắm niềm tin, tôn làm Thành Hoàng Bổn Cảnh phù hộ nhân dân làm ăn sinh sống. Trương Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực đều được nhân dân Nam Bộ tôn thờ với những nét tương đồng.

Thứ nhất, các vị đều là người yêu nước, anh hùng dân tộc, trong hoàn cảnh cả vùng Nam Bộ lần lượt rơi vào tay giặc các ông đã tập hợp nghĩa sĩ, nhân dân lập căn cứ kháng Pháp vào nửa cuối thế kỷ XIX.

Thứ hai, các vị anh hùng kháng Pháp được nhân dân đặt trọn niềm tin, lúc sống nhân dân theo các vị đánh giặc, sau khi hy sinh các vị thành thần Thành hoàng, được nhân dân thành kính tôn thờ. Từ niềm tin, nhân dân đã huyền thoại hóa các vị thành những vị thần linh thiêng qua các câu chuyện truyền thuyết; nhân dân lập đình, đền thờ phụng, thực hành nghi thức cúng bái với lòng biết ơn, ngưỡng mộ.

Thứ ba, các vị tứ hùng kháng Pháp được nhân dân sùng bái, tôn thờ đều trở thành phúc thần phù hộ nhân dân làm ăn, sinh sống đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần

của nhân nhân Nam Bộ.

Sự tương đồng của các vị anh hùng kháng Pháp được tích hợp trong hình tượng Nguyễn Trung Trực. Người xưa sau khi qua đời, con cháu, nhân dân thỉnh bài vị làm bằng gỗ mít có ghi tên, tước vị người đã mất để thờ cúng. Sau khi bị thực dân Pháp xử chém, nhân dân Kiên Giang, An Giang lập bài vị Nguyễn Trung Trực âm thầm thờ vọng. Vào giữa thế kỷ XX, sau sự hy sinh của Trần Văn Ơn, thực dân Pháp khủng bố dữ dội cuộc đấu tranh của phong trào học sinh sinh viên ở Sài Gòn. Các nhà báo yêu nước chuyển sang đấu tranh gián tiếp qua lịch sử bằng cách nhờ họa sĩ vẽ, in hình chân dung và những câu nói nổi tiếng của các nhân vật lịch sử, những vị anh hùng chống ngoại xâm. Thời gian này, phụ bản các báo có in hình Nguyễn Trung Trực với câu nói nổi tiếng: Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây. Hình ảnh của Ông được các họa sĩ vẽ lại lưu truyền đến ngày nay qua các tấm ảnh, tượng được nhân dân, các ban quản trị đình thờ phụng, trở thành biểu tượng cho lòng thành kính tôn thờ của người dân đối với vị AHDT. Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc hình ảnh Nguyễn Trung Trực được họa sĩ mô phỏng những anh hùng khác mà vẽ lại: đôi mắt của Thủ Khoa Huân, tai mũi miệng của Phan Đình Phùng, ria mép của Hoàng Hoa Thám, gương mặt, hình dáng của người nông dân miền Nam. Hình ảnh thờ, tượng thờ Nguyễn Trung Trực, nhưng cũng là biểu tượng của các vị anh hùng, trong đó tiềm ẩn khí tiết của anh hùng kháng Pháp của nghĩa sĩ ba miền Nguyễn Hữu Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám và hơn nữa là của tất cả nông dân Nam Bộ, nông dân Việt Nam. Như vậy, trong tâm tưởng của hậu thế, chân dung Nguyễn Trung Trực vừa có nét tương đồng vừa có tính biểu tượng của người anh hùng chống ngoại xâm.

4.1.1.2 Sự khác biệt

* Về không gian phân bố di tích

Để nhận rò sự phân bố di tích ở các tỉnh thành Nam Bộ, NCS tiến hành thống kê số lượng các di tích thờ các vị anh hùng và địa bàn phân bố di tích

Bảng 4. 1 Số lượng và địa bàn thờ phụng các vị anh hùng ở Nam Bộ


STT

ANH HÙNG

SỐ LƯỢNG

ĐỊA BÀN PHÂN BỐ

1

Trương Định

3

Tiền Giang

2

Thiên hộ Dương

2

Đồng Tháp

3

Thủ khoa Huân

2

Tiền Giang

4

Nguyễn

TrungTrực

37

Long An, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu,

Sóc Trăng, Trà Vinh, Hậu Giang, Cần Thơ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 280 trang tài liệu này.

Tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực trong đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ - 18

(Nguồn: NCS, PL4. 3.16)

Qua bảng 4.1, cho thấy số lượng các di tích của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương tập trung ở địa bàn các vị anh hùng hoạt động, khởi nghĩa. Thực tế cho thấy số cơ sở thờ tự và địa bàn phân bố các di tích liên quan đến Nguyễn Trung Trực có một phổ văn hóa rộng, kéo dài từ Long An qua các tỉnh miền Nam sông Hậu, tứ giác Long Xuyên và ra tận đảo Phú Quốc. Với mục đích tôn vinh, tưởng niệm công lao của Ông với dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa, người dân Nam Bộ đã sáng tạo các sản phẩm văn hóa gắn liền với thờ phụng Nguyễn Trung Trực. Các sản phẩm đó tồn tại trong đời sống cư dân Nam Bộ từ sau ngày Ông hy sinh, phát triển đến nay là minh chứng cho tấm lòng của người dân đối với tiền nhân.

* Mức độ ảnh hưởng trong đời sống văn hóa của nhân dân

Khi Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Trung Trực tham gia nghĩa quân Trương Định đánh Pháp; thành Gia Định thất thủ Ông lui về Long An tổ chức lực lượng kháng Pháp làm nên trận Nhật Tảo rung động đất trời. Sau đó, ông đánh Pháp vài trận ở quê nhà rồi di chuyển đến hoạt động chủ yếu ở vùng Tứ giác Long Xuyên cho đến lúc hy sinh ở Rạch Giá. Sau khi mất, ông được nhân dân ngưỡng vọng, lập đền, đình thờ phụng ở Kiên Giang, An Giang sau đó lan tỏa khắp vùng sông nước Nam Bộ. Nếu như ở Bắc Bộ, thần Thành Hoàng của làng thường là một vị thần cụ thể gắn với mỗi làng, với thần phả khá rò ràng thì ở Nam Bộ việc thờ thần Thành Hoàng tại các đình làng nhìn chung đơn giản, thường chỉ thờ một vị thần mang tính tượng trưng là thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, nghĩa là vị thần Thành Hoàng của một vùng đất. Tỉnh Sóc Trăng có 77 đình, trong đó có sáu đình thờ Nguyễn Trung Trực với ý nghĩa suy tôn Ông là thần Thành Hoàng, số đình còn lại thờ thần Thành Hoàng nhưng không rò lai lịch của thần. Điều đó cho thấy thời gian trước 1868, tất cả các đình nơi đây đều thờ thần Thành Hoàng chung như các đình ở Nam Bộ. Thời gian sau khi Nguyễn Trung Trực hy sinh, nghĩa quân trốn lánh đến nơi này đã lập đền, đình thờ tưởng nhớ Ông, tiêu biểu đình thờ Nguyễn Trung Trực ở huyện Long Phú được lập năm 1885, từ đó số lượng đình ở Sóc Trăng mở rộng đến ngày nay. Đồng thời, việc này chứng tỏ mức độ ảnh hưởng của nhân thần Nguyễn Trung Trực mạnh mẽ trong đời sống văn hóa của nhân dân ở địa phương này. Qua khảo sát, số lượng và địa bàn phân bố các di tích thờ tự của Nguyễn Trung Trực ở khắp Nam Bộ với 37 cơ sở thờ tự, tập trung ở Nam sông Hậu với 33 cơ sở thờ tự. Phạm vi ảnh hưởng việc thờ phụng Nguyễn Trung Trực trải rộng qua số lượng các di tích, các địa bàn có di tích và số lượng đông đảo người dân tham gia lễ hội như bảng dưới đây

Bảng 4. 2 So sánh số người dự lễ hội đình các vị anh hùng dân tộc ở Nam Bộ


STT

ANH HÙNG

LỄ HỘI, LỄ GIỖ

ĐỊA PHƯƠNG

SỐ NGƯỜI THAM DỰ

QUY MÔ

1

Trương Công Định

1820-1864

19-20 tháng 8

dương lịch

Tiền Giang

3000 người

Tỉnh


2

Thiên Hộ Dương 1827-1866

14-15-16 tháng

11 Âl

Đồng Tháp Các tỉnh lân

cận

350.000

người


Tỉnh

3

Thủ khoa Huân

1830 - 1875

15/4 âm lịch

Tiền Giang

1000 người

Tinh


4


Nguyễn Trung Trực

1838 -1868

28 -08 Âl

Kiên Giang

Trên 1 triệu

Vùng, quốc gia

12-09 Âl

Long An

20000 người

Vùng

16,17,18 - 03

Âl

Sóc Trăng

8000 người

Tỉnh

(Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết của các sở VHTTDL năm 2018)

Từ số liệu bảng 4.2, NCS nhận thấy số lượng người tham gia vào lễ giỗ - lễ hội tại các đình thờ Nguyễn Trung Trực đông đảo về số lượng. Người dân ở Sóc Trăng dự lễ Kỳ yên, tưởng niệm Nguyễn Trung Trực khoảng 8000 người; lễ hội ở Long An 20000 người; các tỉnh An Giang, Bạc Liêu, mỗi tỉnh khoảng 10000 người dự lễ hội… Ở Kiên Giang, người dân cả nước tham gia vào năm 2018 - kỷ niệm 150 ngày Nguyễn Trung Trực hy sinh - lên đến một triệu người. Qua khảo sát thực địa, các tỉnh có cơ sở thờ Nguyễn Trung Trực, số lượng chủ thể văn hóa tham gia đông đảo lễ hội, lễ giỗ Ông cùng với số lượng di tích trải rộng cả vùng chứng tỏ nhân dân Nam Bộ đặt niềm tin lớn đối với Ông. Từ các minh chứng trên, chúng tôi nhận thấy đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực là tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ nhân thần ở Nam Bộ.

Nhân dân Nam Bộ phụng thờ Nguyễn Trung Trực bởi tinh thần yêu nước, chiến công vang dội của người anh hùng áo vải. Sau khi Ông hy sinh, nhân dân Nam Bộ âm thầm thờ cúng và gìn giữ, phát triển đến ngày nay. Trong tâm thức của nhân dân, Nguyễn Trung Trực đã hóa thần, trách nhiệm của các thế hệ sau phải trân trọng, tôn vinh. Ông đã trở thành phúc thần được thờ phụng ở Nam Bộ là xuất phát từ tấm lòng của người dân, song trước hết là ở nhân cách lớn của người anh hùng và sự hòa nhập của Ông với Bửu Sơn Kỳ Hương. Sau trận đánh chìm tàu giặc ở vàm sông Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực có khoảng thời gian sinh sống ở vùng An Giang. Ở nơi đây, Ông sống theo nếp sống của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (tiền thân của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo), mặc áo nâu vạt hò, ăn uống đạm bạc, kết thân thường qua lại với Quản cơ Trần Văn Thành, đại đệ tử của Phật Thầy Tây An (người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương). Quản

Xem tất cả 280 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí