Nguyên Nhân Biến Đổi Tín Ngưỡng Thờ Phụng Nguyễn Trung Trực

đình làng ở Nam Bộ về cơ bản là không giống nhau (133, 1999, tr.161). Hiện nay, ngày hy sinh của Nguyễn Trung Trực đã được xác định, được nhà nước và nhân dân công nhận, nhưng tưởng niệm Ông vào tháng 8 âl hay tháng 9 âl đều không quan trọng. Bởi, các ngày tháng trên đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân và trong lòng nhân dân Nam Bộ Nguyễn Trung Trực là người anh hùng, là vị phúc thần luôn che chở, bảo vệ nhân dân.

3.3.1.3 Về nghi thức cúng tế

Qua khảo sát, NCS nhận thấy các nghi thức lễ tế Nguyễn Trung Trực mang dáng dấp của lễ Kỳ yên. Các việc tế lễ cũng có thay đổi, nhưng không nhiều, lễ thỉnh sắc đổi là lễ nghinh sắc. Theo quy ước hoặc do hoàn cảnh chiến tranh sắc thần thường để ở nhà các hương chức hoặc người có uy tín, đạo đức trong làng cất giữ. Đến ngày tổ chức lễ hội, mọi người tham gia lễ thỉnh sắc từ nơi lưu giữ đặt vào tráp thỉnh về đình. Đến đình Ban tổ chức cử hành nghi thức an vị, một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà để tráp đựng sắc phong trên bàn thờ Nguyễn Trung Trực ở chính điện. Trong thời gian sắc thần để ở đình, dân chúng đến lễ bái và dâng hoa quả, bánh trái, tiền bạc đóng góp cho việc tế lễ. Ngày nay, đình lưu giữ sắc thần tại đình, đến ngày lễ, sắc thần được ra ngoài, di chuyển một vòng quanh khu dân cư, gọi là đi nghinh sắc. Qua khảo sát điền dã tại Long An, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, chúng tôi nhận thấy tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực đang dần có sự thay đổi cả về nghi thức lẫn thời gian cúng tế theo hướng tích hợp vào tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Chẳng hạn, tại huyện Cù Lao Dung, Sóc Trăng (khảo sát ngày 12.02 năm 2018), chúng tôi thấy tín ngưỡng này tích hợp rất rò với Phật giáo, tín ngưỡng thờ Neak Tà, thờ Ngũ Hành nương nương, nghĩa sĩ trận vong, và cả thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Vò Nguyên Giáp. Đa phần các đình đều tích hợp thờ Thần Nông, Thổ Thần, Ngũ Hành, Bạch Hổ ở sân đình. Tại An Giang, có sự tương tác giữa nghi thức cúng tế đình với nghi thức của Phật giáo Hòa Hảo (trong các cuộc khảo sát ngày 06.02 năm 2018 trên địa bàn một số huyện của An Giang). NCS nhận thấy Nguyễn Trung Trực đi sâu trong tiềm thức người dân, được nhân dân tôn kính, thờ phụng. Ông không những được thờ phụng ở đình, ở chùa mà ảnh thờ Nguyễn Trung Trực được treo trang trọng và được phụng thờ như Cửu Huyền Thất Tổ ở các gia đình tại các huyện Châu Phú, Chợ Mới, Phú Tân, tỉnh An Giang. Trong tâm thức của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, Nguyễn Trung Trực là quan Thượng đẳng đại thần, tôn danh Ông được tụng niệm rò ràng trong kinh kệ của của tôn giáo này. Về tượng

Nguyễn Trung Trực, có những đình lập tượng, có nơi không xây dựng. Các đình ở Nam Bộ đều lấy tượng Ông ở Rạch Giá (Kiên Giang) làm hình mẫu, tay phải cầm chặt đốc gươm, tay trái nắm chặt bao gươm (PL6.5). Trước sân đình ở thị trấn Cù Lao Dung, Sóc Trăng có dựng tượng anh hùng Nguyễn Trung Trực bằng xi măng, cũng được lấy nguyên bản từ đình Nguyễn Trung Trực ở TP Rạch Giá, Kiên Giang, song ở nơi đây, tượng của Ông lại cầm gươm bằng tay trái, gươm chỉ thẳng lên trời, tay phải giơ cao song song với lưỡi gươm (PL6.41). Qua trao đổi, người quản lý ở đình cho rằng Ông là người giỏi vò, tay trái tay mặt gì cũng giết được giặc. Thực tế, sự việc này, sau khi thống nhất đất nước, do việc đi lại, trang thiết bị còn khó khăn và do chủ quan của người đúc tượng nên tượng Nguyễn Trung Trực ở Cù Lao Dung không giống như tượng của Ông ở các đình khác.

Lễ vật dâng cúng lễ hội Nguyễn Trung Trực theo lệ cúng đình ở Nam Bộ. Vật dâng cúng là nguyên con heo đã mổ, làm sạch nằm sấp hướng về đối tượng thờ phụng. Các món dâng lên Ông trên điện thờ cố định bốn món, còn nhiều món dâng cúng hơn thì tùy theo qui mô tổ chức ở mỗi đình. Tuy nhiên, các món dâng cúng một số đình cũng có những nét riêng. Đa phần các đình cúng mặn, gần đây các đình ở Kiên Giang có cúng các món mặn và món chay, nhưng chủ yếu đãi mặn. Chỉ có ở đình Nguyễn Trung Trực ở Long Giang, huyện Chợ Mới (An Giang) cúng các món chay và đãi chay. Riêng, đình thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá (Kiên Giang) ngoài mâm cơm rượu còn dâng cúng một trái dừa xiêm và một chiếc áo vạt hò cổ truyền; đình Nguyễn Trung Trực ở Gành Dầu có cúng thêm hai con cá lóc và ba trái bắp. Như vậy, vật cúng cơ bản giống nhau, chỉ một số nơi thêm vài món theo lệ xưa hoặc dâng cúng các món chay do ảnh hưởng Phật giáo.

3.3.1.4 Về tổ chức hoạt động hội

Sau nghi thức lễ là các hoạt động hội, thông thường là các trò chơi dân gian và hoạt động nghệ thuật. Các trò chơi dân gian thay đổi nhiều, các đoàn hát cải lương được tổ chức để phục vụ người dân, song hát bội thì dần dần lui vào quá khứ, mặc dù hoạt động này là đặc trưng của các hội đình, trong đó có tổ chức lễ hội đình Nguyễn Trung Trực. Hoạt động hội đình Nguyễn Trung Trực ngày nay có thay đổi cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Một số loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật và các trò chơi dân gian trong lễ hội đình dần dần bị mai một, thay vào đó là những trò chơi có tính hiện đại hơn. Ông Nguyễn Văn Sáo, phó Ban quản trị đình Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, (Kiên Giang) nói: bên cạnh thi kéo co còn có thi xe đạp chậm. Thậm chí, có đình chỉ tổ chức văn nghệ, không còn tổ chức trò chơi dân gian, thay vào đó là tổ chức hội chợ như đình Nguyễn

Trung Trực ở An Trạch A, huyện Đông Hải (Bạc Liêu). Ngay cả ở Rạch Giá (Kiên Giang), hoạt động hội cũng có nhiều biến đổi. Khoảng 10 năm trở lại đây, ở Kiên Giang, hoạt động hội được Nhà nước khôi phục, tổ chức tại khu lấn biển, cách đình vài cây số. Bên cạnh các trò chơi, là các gian hàng ẩm thực, múa lân, cây cảnh được tổ chức kéo dài từ năm đến bảy ngày. Bên cạnh các trò chơi lành mạnh có tổ chức là các hoạt động cờ bạc, bói toán. Đây là những hành vi lén lút, lợi dụng lễ hội để hoạt động phi pháp.

Về hoạt động nghệ thuật, ngày xưa nét đặc trưng làm nên lễ hội đình là nghi thức xây chầu, hát bội với tuồng tích phong phú, thể hiện ý nghĩa trung thắng nịnh, chính nghĩa thắng gian tà, bên cạnh đó là những tuồng cải lương ca ngợi chiến công người anh hùng. Ngày nay, hát bội mất dần theo thời gian, chủ yếu là các đoàn cải lương được nhân dân, các mạnh thường quân đóng góp mời diễn. Trong hoàn cảnh sân khấu truyền thống đang xuống dốc, nhiều đơn vị, cá nhân đang cố gắng, nỗ lực khôi phục cải lương thì lễ hội Nguyễn Trung Trực mời các đoàn cải lương biểu diễn mỗi đêm cho đến khi kết thúc hội đình đã góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân tộc.

Công tác tổ chức lễ hội có sự thay đổi khá nhiều hiện nay. Theo lệ đình, công việc, hoạt động của đình được Ban quý tế thực hiện, còn việc trông nom do ông từ đảm trách. Ban quý tế là nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Ở Nam Bộ, Ban quý tế đình miếu nói chung, đình Nguyễn Trung Trực nói riêng là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn, đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác, bổn phận nhiều hơn quyền lợi. Việc tổ chức lễ hội hàng năm do Ban quý tế thực hiện, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quý khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Hiện nay, đình có Ban quản trị để thực hiện việc cúng tế, cùng chính quyền địa phương tổ chức lễ hội, nhưng nhiều nơi chính quyền can thiệp sâu việc tổ chức lễ hội, như lễ hội truyền thống anh hùng dân tộc, chính quyền đứng ra làm trưởng ban tổ chức lễ hội, phó ban là người trong đình. Phương thức tổ chức này khác với ngày trước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 280 trang tài liệu này.

Biến đổi văn hóa ở Nam Bộ là tất nhiên khi nền văn hóa người Việt tiếp xúc với các tộc người Khmer, Hoa cùng cộng cư khai phá, sinh sống trên vùng đất mới. Từ đó, tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực cũng có những biến đổi trong mối quan hệ chia sẻ, gắn bó lâu dài giữa các tộc người Việt, Khmer, Hoa; để thích nghi với môi trường sông nước và của cuộc sống hiện đại. Không phải ngẫu nhiên ở Sóc Trăng, trong lễ hội Nguyễn Trung Trực, người dân thỉnh Neak Tà, thỉnh Quan Công cùng chứng kiến lễ

hội. Từ cộng cư lâu dài nơi đây, ba dân tộc cùng chia sẻ lẫn nhau những nghi thức cúng tế, những trang phục cho đến sinh hoạt cộng đồng. Cũng không phải ngẫu nhiên, hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương trước đây, Phật giáo Hòa Hảo sau này tôn thờ Nguyễn Trung Trực. Ông gắn bó với hệ phái Bửu Sơn Kỳ Hương từ buổi đầu đến vùng tứ giác Long Xuyên hoạt động. Nhưng, vấn đề cốt lòi là phật tử tin tưởng vào lòng dũng cảm, khí phách can trường, tinh thần vì dân vì nước, trung hiếu vẹn toàn của Nguyễn Trung Trực. Hành động này phù hợp với quan niệm tứ ân của các hệ phái nội sinh ở Nam Bộ nên trong quá trình biến đổi không chỉ có xu hướng tích hợp thờ các tín ngưỡng dân gian ở các đình Nguyễn Trung Trực mà còn có xu hướng tích hợp tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực vào tôn giáo .

Tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực trong đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ - 17

3.3.2 Nguyên nhân biến đổi tín ngưỡng thờ phụng Nguyễn Trung Trực

3.3.2.1. Những thay đổi trong đường lối, chủ trương về văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng là nguyên nhân chủ quan dẫn đến những biến đổi trong đời sống tín ngưỡng, cũng như tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực của cư dân Nam Bộ.

Nguyễn Trung Trực là vị anh hùng trong tâm thức dân gian, với nhiều chiến công vang dội được triều đình phong kiến ghi nhận công lao. Sau khi Ông mất ba năm, triều đình nhà Nguyễn hay tin, vua Tự Đức cho người dò la nắm sự việc nhằm hậu báo tri ân. Các Châu bản Tự Đức năm thứ 23, 24 (1871) cho hậu thế thấy rò sự ghi nhận công lao đóng góp của những vị anh hùng kháng Pháp, trong đó có Nguyễn Trung Trực. Tuy nhiên, do lúc này triều đình Tự Đức hoàn toàn bị động và chịu nhiều áp lực từ thực dân đang từng bước thôn tính Việt Nam nên việc truy tặng và phong thần cho các anh hùng kháng Pháp tử tiết không thể thực hiện, song, người dân vẫn bằng cách này hay cách khác thể hiện sự ngưỡng vọng của mình với những người đã vị quốc vong thân. Tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực đã hình thành như một quy luật tất yếu của văn hóa trong đời sống tâm linh của cư dân Nam Bộ.

Sau khi bình định Việt Nam, cuối thế kỷ XIX, Pháp bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị với chính sách khai hóa thâm độc. Trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng, ngoài việc ủng hộ Thiên Chúa giáo, Pháp mị dân bằng các chiêu bài dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người Việt Nam. Sự công nhận, cho phép các tôn giáo người Việt hoạt động công khai trong đời sống xã hội Nam Bộ của chính quyền thực dân Pháp là một điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực có cơ sở bám trụ vững chắc và phát triển bán công khai với hình thức của tôn giáo. Mặt khác, thực

dân lại tăng cường khủng bố, đốt phá những cơ sở thờ tự thờ các anh hùng kháng Pháp hay nghi ngờ những vị có dính líu đến quốc sự. Cũng trong thời gian này, tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực không những không bị triệt tiêu mà còn lan rộng sang các vùng phía Nam sông Hậu theo bước chân của những nghĩa binh lánh nạn, tỵ địa kháng Pháp. Từ sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Ở miền Nam, tín ngưỡng thờ AHDT trong các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng bị ảnh hưởng nhiều do chiến tranh, nhưng việc thờ phụng và các hoạt động tưởng niệm Nguyễn Trung Trực trong dân gian và giới nghiên cứu vẫn tiến triển. Năm 1951, những bức phác họạ chân dung đầu tiên về người anh hùng Nguyễn Trung Trực đã xuất hiện ở Sài Gòn, năm 1957, Trường trung học đầu tiên của tỉnh Kiên Giang được mang tên Nguyễn Trung Trực, năm 1968 Tập san Sử Địa đã dành một đặc khảo viết về Ông.

Sau năm 1975, do những đặc điểm và hoàn cảnh chính trị, các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng bị hạn chế. Việc tế lễ thực hiện trong phạm vi hẹp, các cơ sở thờ tự ít được quan tâm sửa chữa, xây mới. Đình Nguyễn Trung Trực ở các địa phương cũng rơi vào tình trạng tương tự. Từ sau thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có những thay đổi trong tư duy lý luận, đường lối và chính sách với những quan điểm mới về tôn giáo tín ngưỡng. Những quan điểm, chủ trương đó được thể hiện cụ thể sinh động trong hàng loạt các văn bản pháp lý. Đó là sự ra đời của Nghị quyết 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, được coi là dấu mốc mở đầu cho sự thay đổi mang tính đột phá về nhận thức, quan điểm về tôn giáo và những đổi mới về chủ trương chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Sau đó là hàng loạt các văn kiện, văn bản khác như Chỉ thị 37 - CT/TW ngày 02/7/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII Về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Nghị quyết 25 (12/3/2003) Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về công tác tôn giáo, đặc biệt là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (7/2004), Nghị định 22/CP của chính phủ ban hành vào 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo ra sự đổi mới mạnh mẽ trong chính sách tôn giáo ở nước ta trong nhiều thập kỷ qua. Nội dung đổi mới tập trung ở nhận thức mới về tôn giáo, phương hướng và quan điểm mới về công tác tôn giáo. Các Nghị quyết của Đảng khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ rò sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng không chỉ là một

phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần mà còn là thành tố văn hóa quan trọng giúp nhân dân hiểu tâm hồn, tình cảm, bản sắc văn hóa dân tộc.

Tất cả những thay đổi trên đã tạo nên một bầu không khí xã hội mới với sự cởi mở, tự do hơn trong đời sống văn hóa tâm linh góp phần tạo nên động lực để các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Nhờ các chính sách sau thời kỳ đổi mới, các đình thờ Nguyễn Trung Trực được nhân dân đầu tư sửa chữa, khôi phục, một số đình được xây dựng mới; các di vật lưu lạc nhiều nơi được người dân tìm kiếm, phụng hiến trưng bày trong các cơ sở thờ tự; nhân dân đến lễ hội với tinh thần tự nguyện. Các nghi thức cúng tế, hoạt động lễ hội dân gian dần được khôi phục. Sau khi Nguyễn Trung Trực thụ hình, nhân dân đã tìm thi hài Ông để lập mộ phần, thỉnh bài vị của Ông vào thờ ở đền thờ Cá Ông (nay là đình Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá) mở đầu cho việc lập đền, miếu tưởng nhớ Ông ở các tỉnh lân cận, hình thành tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực. Sau thời kỳ đổi mới, đình thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá được quan tâm đầu tư, mở rộng, bảo tồn được nhà nước công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia năm 1988 (theo Quyết định số 191, ngày 22 – 3 – 1988), tiếp tục mở đầu việc phục hồi tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực. Từ đó, đình thờ Nguyễn Trung Trực ở các tỉnh được sửa sang, lễ hội được phục dựng, tín ngưỡng thờ phụng Nguyễn Trung Trực được lan tỏa cả vùng. Tuy nhiên, theo dòng thời gian các hình thức diễn xướng như hát bội trong cúng đình dần mai một, các nghi thức trong tế lễ cũng như các nghi trình và thủ tục trong lễ hội đình được bảo lưu không nhiều.

Đến nay, các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được đưa về đúng vị trí của nó, phát triển mạnh mẽ. Nhờ chính sách của nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ, cùng sự nương nhờ trong tôn giáo và trong tâm thức nhân dân, tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực lưu truyền bền bỉ, không ngừng mở rộng, đặc biệt sau thời kỳ đổi mới 1986. Một trong những mục tiêu quan trọng được đặt lên hàng đầu trong các chính sách văn hóa là sự phục hưng văn hóa truyền thống. Nó là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lòi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Chính vì vậy, trong hơn thập kỷ qua, với sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được phục hồi sau một thời gian dài bị ẩn chìm, mai một trong những năm tháng chiến tranh hay bị phá bỏ bởi những quan niệm, định kiến, nhận thức sai lầm. Các di tích lịch sử văn hóa được công nhận, nhiều lễ hội truyền thống, các trò chơi dân gian, phong tục tập quán... được

phục hồi và mở rộng khắp cả nước góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới ở nước ta.

3.3.2.2. Những thay đổi về kinh tế - văn hóa - xã hội cũng góp phần không nhỏ trong sự biến đổi của tín ngưỡng này là nguyên nhân khách quan.

Nam Bộ, thời kỳ trước đổi mới, có cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn, trong khi đó công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chiếm tỷ lệ nhỏ. Sự bất hợp lý này được thể hiện trong nội bộ từng ngành. Trong khi đó, vùng này chịu sức ép nặng nề nhất của dân số (dân số đông, tăng nhanh) nên cơ cấu kinh tế trên không đáp ứng được nhu cầu của vùng cả về sản xuất, đời sống. Chính vì vậy, Nam Bộ phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm khai thác các thế mạnh một cách có hiệu quả góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Sau khi thực hiện đổi mới, cư dân Nam Bộ đã có sự thay đổi đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội. Một cơ cấu kinh tế hợp lý dần dần được hình thành và phát triển. Đồng bằng Nam Bộ là vùng sản xuất lương thực thực phẩm chủ yếu của đất nước vừa bảo đảm an ninh lương thực vừa cung cấp hàng xuất khẩu. Nhờ đó, Nam Bộ đã dần dần khai thác được các thế mạnh vốn có của vùng (về dân cư, tự nhiên, xã hội đưa vào sản xuất); đạt được những thành tựu lớn về cả kinh tế và nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa mọi mặt của nhân dân. Quá trình đô thị hóa nơi đây được đẩy mạnh góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Các đô thị không chỉ tạo ra nhiều việc làm, thu hút đầu tư mà còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa đa dạng. Đô thị hóa đã đem đến nhiều đổi thay trong đời sống kinh tế - xã hội ở Nam Bộ. Người dân không còn khép kín trong một môi trường kinh tế nông nghiệp thuần túy mà đã kiếm tìm và khẳng định bản thân trong một môi trường kinh tế mới với sự đa dạng các ngành nghề. Kinh tế phát triển đã nâng cao mức sống của người dân cũng như nâng cao đời sống văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần đã nảy sinh nhiều nhu cầu mới, biểu hiện là sự phục hồi của nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo truyền thống và sự xuất hiện những hiện tượng tôn giáo mới. Do đó, đời sống tâm linh trở nên sôi động hơn trước, các thực hành tín ngưỡng được thực hiện cầu kỳ, chu đáo hơn theo quan niệm phú quý sinh lễ nghĩa, nhiều cơ sở thờ tự được trùng tu, tôn tạo và xây mới.

Trước đây, đời sống của người dân còn khá giản đơn và mộc mạc. Họ mới chỉ biết đến thần của làng mình theo tâm lý tự tôn làng xã Trống làng nào làng ấy đánh.

Thánh làng nào làng ấy thờ. Họ đến lễ với lòng thành tâm và mong muốn được mưa thuận gió hòa, cầu mong sức khỏe, hạnh phúc cho gia đình và cộng đồng. Ngày nay, đổi mới kinh tế đã vạch ra nhiều con đường sinh kế khác nhau, đem đến nhiều vận may lẫn rủi ro cho mọi tầng lớp xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo với khoảng cách ngày càng rộng cùng áp lực của quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa... làm cho cuộc sống của nhiều người dân quen với sự thong thả, chậm rãi của xã hội nông nghiệp hoặc do không có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp cảm thấy chơi vơi, bất ổn trong cuộc sống thực tại, ngay cả những người được xem là có thể thích ứng với cuộc sống mới cũng chịu sự tác động của sự chưa ổn định khi chuyển đổi. Trong bối cảnh ấy, tôn giáo tín ngưỡng được xem như một nguồn lực tinh thần được trông cậy. Nếu trước đây đình Nguyễn Trung Trực chỉ được mở cửa vào những dịp lễ hội, những ngày sóc vọng, lễ tết thì nay được mở cửa thường xuyên nhằm phục vụ nhu cầu của người dân; các đình ở Kiên Giang, An Giang được vệ sinh, chăm sóc, dâng cúng hàng ngày. Các di tích thờ Nguyễn Trung Trực không chỉ được người dân địa phương đến cầu mong, ước nguyện mà còn thu hút người dân ở lân cận và du khách thập phương. Hiện nay, đình thờ Nguyễn Trung Trực là nơi linh thiêng, chốn đi về của người dân tại địa phương và của cả cư dân Nam Bộ.

Từ sự biến đổi và kết quả khảo sát thực địa, NCS nhận thấy tín ngưỡng thờ Nguyễn Trung Trực có khuynh hướng tích hợp với các tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Các khuynh hướng này sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng trong thời gian tới.

Lúc đầu, nơi thờ Nguyễn Trung Trực là những miếu nhỏ do nghĩa quân nhớ chủ tướng thành lập (đình Nguyễn Trung Trực ở huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu); có nơi nhân dân lén lút thờ trong đình thờ thần Thành Hoàng ở huyện Châu Thành, huyện Hòn Đất, trong đình thờ Cá Ông ở TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; phật tử thờ cúng trong chùa ở An Giang hay nhân dân thờ vọng tại gia. Dần dần, việc thờ cúng được công khai, các ngôi đền, miếu nhỏ không đủ chứa đựng tấm lòng của người dân đối với vị AHDT, từ đó không gian thờ phụng Nguyễn Trung Trực được mở rộng, các đình thờ Nguyễn Trung Trực hình thành và phát triển mạnh mẽ.

Sau năm 1988, khi Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá (Kiên Giang) được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia thì việc thờ phụng Ông bắt đầu xu hướng lan tỏa ra diện rộng trên khắp Nam Bộ. Theo thời gian, mức độ, quy mô của lễ giỗ - lễ hội ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng đã tạo một cơ sở vững chắc cho quá trình thần hóa các đình thờ Nguyễn Trung Trực (vốn thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh

Xem tất cả 280 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí