Tác Động Của Tín Dụng Vi Mô Đối Với Người Nghèo


hàng quốc gia ở các nước đang phát triển, các tổ chức phi chính phủ trong thập niên 80 của thế kỷ XX.

Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tiếp cận các dịch vụ ngân hàng chính thức đã giúp người nghèo gia tăng thu nhập tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào các chính sách, sự can thiệp của chính phủ và việc cung cấp các dịch vụ của các ngân hàng chính thức. Việc gia tăng thu nhập cho người nghèo được thể hiện qua các hình thức:

(1) Thiết kế đổi mới về sản phẩm tiết kiệm sẽ gia tăng nhu cầu và số lượng về gửi tiền tiết kiệm bằng cách giúp người nghèo nhận ra các thử thách hành vi để gia tăng thu nhập.

(2) Cải thiện công nghệ ngân hàng bằng cách sử dụng điện thoại di động để làm thuận tiện việc gửi tiền, chuyển tiền, thanh toán và làm cho số tiền tiết kiệm có khả năng gia tăng thu nhập bằng cách cho phép hộ gia đình sử dụng thuận lợi và tích lũy số tiền tiết kiệm.

(3) Việc mở rộng lĩnh vực ngân hàng do nhà nước quản lý ở khu vực nông thôn đã gia tăng nguồn cung cấp các dịch vụ ngân hàng, giảm nghèo đói, tăng thu nhập cho nông dân và giúp họ mở rộng đầu tư nông nghiệp. Việc mở rộng lĩnh vực này đã giúp cho người nghèo nhất có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng và không phải chịu lãi suất cao như ở khu vực ngân hàng tư nhân hoặc tình trạng vay nặng lãi từ bên ngoài.

(4) Việc tiếp cận tín dụng có thể gia tăng thu nhập hộ gia đình bằng cách gia tăng tiêu dùng hoặc giữ mức tiêu dùng không thay đổi. Ngoài ra, nó có thể gia tăng thu nhập nông nghiệp bằng cách cho phép nông dân mua nguyên liệu đầu vào tối ưu hơn, hướng tới sản lượng và thu nhập cao hơn.

Thứ hai, Tiamiyu Mojisola F (1994) nghiên cứu về ngân hàng cho người nghèo: sự chấp nhận của khách hàng nữ của ngân hàng nhân dân Nigeria. Nghiên cứu thực hiện với 26 khách hàng nữ tại một chi nhánh của ngân hàng nhân dân Nigeria, 12 doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong khu vực đô thị và 14 doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong khu vực nông thôn.

Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu với 26 khách hàng nữ bên cạnh việc quan sát các hoạt động và hành vi được tiến hành tại các địa điểm kinh doanh (nhà riêng, chợ, các gian hàng bên đường) của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 280 trang tài liệu này.

(1) Hầu hết khách hàng nữ đều hài lòng với các dịch vụ của ngân hàng nhân dân Nigeria vì các dịch vụ này đã giúp họ cải thiện tình hình kinh tế gia đình, ổn định tình hình chính trị và tâm lý.

(2) Đánh giá về ngân hàng của khách hàng là doanh nghiệp nhỏ ở cộng đồng đô thị và nông thôn không khác nhau.

Tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam đối với người nghèo - 7

(3) Cách tốt nhất để cải thiện đời sống của phụ nữ nghèo là cung cấp cho họ các cơ hội tham gia hoạt động tín dụng.

Thứ ba, Liverpool L.S.O và Winter-Nelson A (2010) nghiên cứu về tình trạng nghèo đói và tác động của tín dụng chính thức (chủ yếu là TCVM) đối với việc sử dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp, tiêu dùng, gia tăng thu nhập và gia tăng tài sản giữa các hộ gia đình với các mức độ nghèo khác nhau bằng việc sử dụng dữ liệu ở vùng nông thôn Ethiopia (Dữ liệu được lấy từ Bộ dữ liệu hộ gia đình nông thôn Ethiopia bao gồm 15 hiệp hội nông thôn ở 4 khu vực, 1.477 mẫu/năm vào các năm 1994, 1995, 1997, 1999 và 2004).

Từ những năm 1990, chính phủ Ethiopia đã theo đuổi một chiến lược công nghiệp hoá phát triển nông nghiệp với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp và đạt được an toàn thực phẩm. Chiến lược được thực hiện bằng việc mở rộng cung cấp và đầu tư tài chính ở khu vực nông thôn nhằm thúc đẩy, tăng cường sản xuất nông nghiệp thông qua việc sử dụng con giống mới, phân bón và các loại đầu vào khác. Bên cạnh đó, các nhà tài trợ và các tổ chức phi chính phủ ngày càng tìm cách nâng cao năng suất lao động của nông dân bằng cách giúp họ tiếp cận với công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến thông qua sử dụng vốn, dịch vụ từ TCVM và cơ chế khác.

Bằng cách kết hợp tín dụng với đào tạo, các tổ chức TCVM đã mở ra cho họ con đường thoát nghèo thông qua sử dụng vốn, các dịch vụ từ TCVM nhằm tiếp cận và sử dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến.

Nghiên cứu cho thấy hộ gia đình có nhiều tài sản hơn thì khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ TCVM tốt hơn những hộ gia đình không có tài sản do được cung cấp các khoản đầu tư lớn hơn vì vậy khả năng gia tăng thu nhập, gia tăng tài sản nhanh hơn (các hộ gia đình nghèo thường được cung cấp các khoản vay dưới 165


USD). Đối với những hộ nghèo nhất thường không được hưởng lợi từ các tổ chức TCVM nhưng được hưởng các khoản trợ cấp từ chính phủ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Không có mối quan hệ giữa việc tham gia vào các chương trình TCVM với việc sử dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến, gia tăng tiêu dùng đối với nhóm người nghèo nhất. (2) Đối với những hộ gia đình nghèo khác thì TCVM có tác động tích cực đến cải thiện tiêu dùng, gia tăng thu nhập, gia tăng tài sản và việc sử dụng công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến.

Thứ tư, Robinson MS (2001) nghiên cứu về cuộc cách mạng TCVM – Tài chính bền vững cho người nghèo cho thấy hầu hết các tổ chức TCVM là các tổ chức phi chính phủ (NGO), thường cung cấp một loạt các dịch vụ xã hội. Có ít nhất 80% trong số 900 triệu hộ gia đình nghèo ở các quốc gia có thu nhập thấp không thể tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức. Cuộc cách mạnh TCVM là một sự đóng góp tuyệt vời về lý thuyết và thực tiễn cho sự phát triển kinh tế.

TCVM ở Indonesia có một sự phát triển mạnh mẽ ở cả vùng nông thôn và khu dân cư đô thị giúp cho nhiều người nghèo tiếp cận các dịch vụ của các tổ chức này. Hai tổ chức tiêu biểu cho hệ thống TCVM ở Indonesia là ngân hàng Dagang Bali (BDB) và Rakyat Indonesia (BRI). Hệ thống TCVM ở Indonesia đã giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo quốc gia từ 40% vào năm 1970 xuống 11% vào năm 1996. Năm 1997, khi nền kinh tế Đông Á rơi vào khủng hoảng và tình trạng đói nghèo ở Indonesia gia tăng, tổ chức TCVM BRI đã giúp người nghèo ở các khu vực kinh tế phi chính thức vay vốn, đầu tư kinh doanh và tạo thu nhập. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng vi mô ở Indonesia còn giúp giảm nhẹ tác động của khủng hoảng đối với người nghèo, các doanh nghiệp nhỏ và từng bước cải thiện nền tảng kinh tế của gia đình, doanh nghiệp nhỏ. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Các dịch vụ TCVM giúp người nghèo cải thiện an ninh tài chính, tận dụng các cơ hội kinh doanh và tạo thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ.

(2) Khi thu nhập của người nghèo tăng lên, nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng tăng lên do đó hệ thống ngân hàng vi mô ở Indonesia đã thực hiện cải cách mạnh mẽ nhằm đa dạng hóa sự sẵn có của các dịch vụ TCVM để tiếp tục giúp người nghèo gia tăng thu nhập và thoát nghèo.


(3) Nhu cầu gửi tiền tiết kiệm của người nghèo ở nông thôn và thành thị rất lớn và họ sẵn sàng gửi tiền vào các tổ chức TCVM (đặc biệt là các tổ chức do chính phủ quản lý) sau khi được vay tiền vì vậy tiện ích tiết kiệm cần phải được cải thiện để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của người nghèo. Cung ứng vốn và gửi tiết kiệm là 2 công cụ hữu ích cho người nghèo trong việc gia tăng thu nhập, đảm bảo khả năng thanh toán.

Thứ năm, Mai THĐ (2016) nghiên cứu về tác động của TCVM đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam với dữ liệu được lấy từ bộ dữ liệu kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2012 (VHLSS 2012). Kết quả phân tích hồi quy cho thấy các yếu tố tác động đến thu nhập của hộ nghèo gồm: độ tuổi, quy mô hộ, tỷ lệ phụ thuộc, tổng tài sản, TDVM và khu vực sinh sống. Nghiên cứu được thực hiện với 515 mẫu hộ gia đình bao gồm: 234 hộ vay vốn và 281 hộ không vay vốn năm 2010.

Dịch vụ TCVM ở Việt Nam hướng đấn khách hàng là những người nghèo, rất nghèo, các doanh nghiệp nhỏ và hình thức cho vay chủ yếu là qua tín chấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Tiền vay từ dịch vụ TCVM đã tác động tích cực trong việc cải thiện thu nhập của hộ nghèo: Khi có vốn, hộ nghèo có thể nắm bắt được cơ hội SXKD, thực hiện đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị, … để nâng cao năng suất lao động từ đó gia tăng lợi nhuận, cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo và giảm gánh nặng cho xã hội. Tác động của dịch vụ TCVM đến từng nhóm hộ nghèo khác nhau là khác nhau.

(2) Tổng số tiền vay từ TDVM càng lớn thì cơ hội đầu tư SXKD của hộ nghèo càng cao từ đó nguồn thu nhập bình quân mang lại cũng sẽ nhiều hơn.

(3) Khu vực sinh sống (nông thôn hay thành thị) ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập bình quân của hộ nghèo. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi thì thu nhập bình quân của hộ nghèo ở thành thị cao hơn ở nông thôn 22,54%.

(4) Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi quy mô hộ gia đình tăng thêm 1 người thì thu nhập bình quân của hộ đó giảm 7,24%.

(5) Hộ có tỷ lệ phụ thuộc cao thì thu nhập bình quân thấp vì vậy phải tạo việc làm cho những người còn sức lao động nhằm giảm bớt gánh nặng chi tiêu gia đình.

Thứ sáu, Rosenberg R (2010) nghiên cứu về việc TDVM có thực sự giúp đỡ người nghèo cho rằng TDVM bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong công chúng cách đây


25 năm, nghiên cứu cho rằng TDVM có sức mạnh phi thường để nâng cao thu nhập, cuộc sống của người nghèo đặc biệt là phụ nữ nghèo thông qua việc cung cấp vốn để các doanh nghiệp nhỏ, người nghèo đầu tư vào SXKD.

TDVM là công cụ sống còn của các hộ gia đình nghèo ở một số quốc gia đang phát triển như: Ấn Độ, Bangladesh, Nam Phi, … vì nó giúp hộ nghèo nhanh chóng gia tăng thu nhập, giảm tiêu dùng bên cạnh các khoản hỗ trợ của các nhà tài trợ, chính phủ, các nhà đầu tư xã hội, …

Dịch vụ TCVM mà cụ thể là tín dụng và tiết kiệm là những công cụ quan trọng giúp người nghèo gia tăng thu nhập, thoát khỏi cảnh nghèo đói mà còn giúp họ có thể nắm bắt các cơ hội đầu tư, khắc phục các cú sốc của cuộc sống như thanh toán các khoản chi phí lớn về y tế, giáo dục, …

Ở các quốc gia đang phát triển, các dịch vụ tài chính không chính thức (các câu lạc bộ tiết kiệm, cho vay phi chính thức, các khoản cho vay từ gia đình, bạn bè, người ở địa phương, …) phát triển rất mạnh mẽ vì nó thường linh hoạt hơn các dịch vụ của tổ chức tài chính chính thức do đó người nghèo cũng sẵn sàng tham gia các dịch vụ này mặc dù độ tin cậy của nó không cao. TDVM chính thức thì đáng tin cậy hơn nhiều so với TDVM không chính thức do: cán bộ tín dụng của tổ chức cho vay tham gia các cuộc họp của người vay vốn hàng tuần bất kể thời tiết, số tiền và lãi suất cho vay được thực hiện đúng theo quy định ban đầu, không đòi tiền hối lộ, giữ quan hệ tín dụng minh bạch và thực hiện giao dịch nghiêm túc.

Trong giai đoạn nền kinh tế Đông Á rơi vào khủng hoảng (chẳng hạn như ở Indonesia năm 1990), những người tham gia TDVM vẫn thực hiện trả nợ đúng hạn tốt hơn những người tham gia các lĩnh vực tín dụng khác vì họ rất lo lắng để tiếp tục duy trì quyền tiếp cận của họ vào các dịch vụ TCVM chính thức.

Nghiên cứu được thực hiện với 2 nhóm đối tượng là nhóm có vay và nhóm không vay. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Các khoản vay từ TDVM tạo ra sự cải thiện lớn về thu nhập cho người nghèo vì những người vay vốn gia tăng thu nhập tốt hơn những người không vay.

(2) Những người nghèo vay vốn ngắn hạn (từ 12 – 18 tháng) thì khó cải thiện thu nhập hoặc giảm tiêu dùng hộ gia đình.


(3) Để cải thiện thu nhập và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cơ bản hàng ngày, người nghèo phải tiết kiệm và vay mượn liên tục do đó các dịch vụ TCVM mà đặc biệt là TDVM phải cung cấp đa dạng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu cho người nghèo.

Thứ bảy, Mosley (2001) nghiên cứu về TCVM và nghèo đói ở Bolivia cho rằng ngành TCVM ở Bolivia đang phát triển mạnh mẽ, có thể cạnh tranh với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới và có vai trò rất quan trọng trong việc gia tăng thu nhập cho người nghèo, cho người dân, đóng vai trò quan trọng trong giải phóng nền kinh tế vĩ mô khỏi suy thoái từ giữa những năm 1980.

Để giúp người nghèo gia tăng thu nhập và thực hiện giảm nghèo, Bolivia đã đẩy mạnh thực hiện các hoạt động sau: Nỗ lực huy động tiết kiệm của người nghèo ở nông thôn, không ngừng gia tăng quy mô khoản vay và có cơ chế bảo hiểm thích hợp đối với khoản vay, việc sản xuất của người nghèo.

Nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động của TCVM đối với việc gia tăng thu nhập của người nghèo, giảm nghèo đói bằng việc khảo sát đối với 4 tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM gồm 2 tổ chức ở thành thị và 2 tổ chức ở nông thôn. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Các dịch vụ TCVM có tác động tích cực đến thu nhập và tài sản của người nghèo, các doanh nghiệp nhỏ. Nguồn thu nhập này được tạo ra từ việc sử dụng vốn vay để đầu tư SXKD.

(2) Người nghèo dễ gia tăng thu nhập sau khi vay vốn do đầu tư vào các tài sản có rủi ro thấp.

(3) Dịch vụ TCVM cũng có thể làm gia tăng tính dễ bị tổn thương của người nghèo: Khi tỷ lệ nợ cao và người nghèo thực hiện đầu tư không thành công thì người nghèo có thể bị buộc phải rời khỏi hệ thống TCVM và có thể dẫn đến việc mất vốn, bần cùng hóa.

(4) Người nghèo thường bị hạn chế trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư do đó không có chiến lược và khó khăn trong việc thực hiện đầu tư dài hạn vì vậy dễ phải bán tài sản, cắt giảm chi tiêu gia đình như việc học của con cái, chăm sóc sức khỏe, …

(5) Những người nghèo, người có thu nhập thấp thường gia tăng thu nhập thành công hơn do có tiền gửi tiết kiệm tự nguyện và không vội vàng gia tăng vốn cố định.


Thứ tám, Hulme D và Mosley P (1996) nghiên cứu sự bền vững về tài chính của các tổ chức TCVM, tác động của khoản vay từ TDVM đến thu nhập của người nghèo: Có sự đánh đổi thương mại của các tổ chức TCVM? cho rằng các tổ chức TCVM trên thế giới qua quá trình hoạt động đã đạt được 2 mục tiêu là không ngừng gia tăng tiếp cận với người nghèo và có sự bền vững về tài chính.

Nghiên cứu thực hiện khảo sát trong giai đoạn 1989-1992 với 150 người/mẫu tại 13 tổ chức TCVM ở 7 quốc gia mà đã đạt được mục tiêu giảm nghèo thông qua việc sử dụng các chức năng của hệ thống tài chính.

Các tổ chức TCVM có sự bền vững về tài chính là những tổ chức có các sản phẩm, tính năng được thiết kế tốt như: lãi suất cho vay cao hơn, các hình thức tiết kiệm tự nguyện đa dạng, tần số thu hồi nợ cao, có các hình thức khuyến khích vật chất để người vay trả nợ đúng hạn, khuyến khích nhân viên tối đa hóa mức cho vay và số tiền thu hồi nợ, …

Nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ giữa sự bền vững tài chính ở các tổ chức TCVM và việc gia tăng thu nhập của người nghèo, giảm nghèo đói: Các tổ chức TCVM có sự bền vững về tài chính thường cung cấp các dịch vụ tài chính tốt hơn giúp người nghèo gia tăng thu nhập và thoát nghèo nhanh hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

(1) Khi tham gia vay vốn từ các tổ chức TCVM thì các hộ gia đình trên chuẩn nghèo gia tăng thu nhập nhanh hơn các hộ ở trong, dưới chuẩn nghèo do những người trên chuẩn nghèo sẵn sàng tham gia đầu tư vào các lĩnh vực có rủi ro cao, sẵn sàng cải tiến công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị sản xuất mới để gia tăng thu nhập, … Đối với một số hộ rất nghèo, tác động của TCVM đến thu nhập của họ rất thấp thậm chí là tiêu cực, đẩy họ sâu hơn vào các khoản nợ mặc dù đã có sự kiểm soát của các thành viên trong nhóm vay do các hộ này thường vay các khoản rất nhỏ, sản xuất tự cấp tự túc, ít khi đầu tư vào công nghệ mới, …

(2) Các tổ chức TCVM có sự ổn định về tài chính thường cung cấp các khoản vay lớn hơn với lãi suất cao hơn vì có nhiều người nghèo, người có thu nhập thấp sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đầu tư vào các dự án có tỷ suất sinh lợi cao hơn do đó việc gia tăng thu nhập nhanh hơn.


(3) Các tổ chức TCVM bền vững thường cung cấp đa dạng các loại dịch vụ như: thực hiện các loại hình tiết kiệm tự nguyện và bắt buộc, bảo hiểm cho khoản vay, lãi suất ưu đãi, … để giảm chi phí đầu vào, xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý, khuyến khích hoàn trả nợ vay đúng hạn, …

(4) Cung cấp các dịch vụ ngân hàng gần địa điểm kinh doanh hoặc nơi cư ngụ của khách hàng sẽ giảm chi phí giao dịch cho người đi vay do đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận từ đó giúp họ gia tăng thu nhập nhanh.

3.4. Tác động của tín dụng vi mô đối với người nghèo

Quan điểm của Ledgerwood J, Earne J, Nelson C (2013), Pitt MM và Khandker SR (1998) cho thấy tác động của TDVM đối với người nghèo là:

(1) Cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ để duy trì công việc SXKD của hộ gia đình góp phần thực hiện giảm nghèo.

(2) Cải thiện điều kiện nhà ở.

(3) Nâng cao chất lượng cuộc sống: cải thiện tình trạng giáo dục của trẻ em và tình trạng sức khỏe con người.

(4) Giúp tích lũy, gia tăng số tiền tiết kiệm.

Quan điểm của Sam Daley–Harris (2006), Stewart và cộng sự (2012) cho thấy tác động của TDVM đối với người nghèo là:

(1) Tạo công ăn việc làm đặc biệt cho phụ nữ không có công việc ổn định và không biết chữ.

(2) Gia tăng việc trao quyền cho phụ nữ

(3) Chống lại tình trạng đi vay nặng lãi.

(4) Cải thiện phúc lợi và tăng chi tiêu hộ gia đình

Kết quả từ việc triển khai các chương trình TDUĐ của chính phủ cho chương trình giảm nghèo qua các giai đoạn và hoạt động của các tổ chức TCVM ở Việt Nam cho thấy tác động của TDVM đối với người nghèo là:

(1) TDVM cung cấp nguồn vốn với lãi suất thấp để người nghèo đầu tư vào SXKD từ đó gia tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống và góp phần nâng cao bộ mặt KT-XH của từng địa phương.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2022