Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Thực Thi Chính Sách Tín Dụng Đối Với Học Sinh Sinh Viên Tại Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Việt Nam

Bên cạnh đó, việc gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn nợ cho các khoản vay của HSSV có hoàn cảnh khó khăn được thực hiện với rất nhiều lý do chưa phù hợp với những quy định chung như:

+ Theo quy định người vay phải trả nợ gốc và lãi tiền vay lần đầu tiên không quá 12 tháng kể từ ngày HSSV kết thúc khóa học, số tiền cho vay được phân kỳ trả nợ tối đa 6 tháng 1 lần, nhưng rất nhiều HSSV ra trường chưa có việc làm nên không có thu nhập để trả nợ Ngân hàng. Trong khi đó nhiều hộ nghèo – đối tượng cam kết trả nợ thay HSSV, lần đầu tiên tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, nên khi vay chưa xác định đúng thời hạn trả nợ ngân hàng dẫn đến tình trạng đến kỳ hạn trả nợ nhưng kỳ sản xuất, kinh doanh chưa kết thúc hoặc chưa bán được sản phẩm vì vậy chưa có nguồn trả nợ phải xin gia hạn nợ.

+ Do đặc điểm của hộ nghèo phần lớn là thiếu kiến thức về sản xuất, kinh doanh, mọi hoạt động phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên khi xảy ra thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, … hoặc làm ăn không thuận lợi sẽ dẫn đến việc mất vốn hay bị thua lỗ, người dân không có tiền trả nợ khi đến hạn phải xin gia hạn nợ.

+ Thêm vào đó, một số hộ vay có tâm lý ỷ lại vào nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ nên tuy có khả năng trả nợ nhưng lại xin gia hạn nợ để kéo dài thời gian vay vốn được ưu đãi cùng với việc do cán bộ ngân hàng không kiểm tra kỹ nên vẫn được chấp thuận.

Từ các nguyên nhân trên dẫn đến nhiều khoản nợ đã quá hạn nhưng được gia hạn nợ nên vẫn hạch toán nợ trong hạn. Một số trường hợp khác do chuyển nợ quá hạn không kịp thời đã làm sai tỷ lệ nợ quá hạn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn trên thực tế có thể cao hơn nhiều so với báo cáo, điều này cho thấy tiềm ẩn nguy cơ mất vốn của NHCSXH là khá cao.

2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực thi chính sách tín dụng đối với học sinh sinh viên tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

2.3.1. Những kết quả đạt được

Qua hơn mười năm thực hiện CSTD đối với HSSV, NHCSXH đã đạt được những kết quả quan trọng:

Tín dụng ưu đãi đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn đã góp phần giúp cho HSSV không phải bỏ học vì không có tiền, đã hỗ trợ cho người dân nghèo có cơ hội vươn lên trong cuộc sống.

Với các chuyên san, chuyên mục, chương trình riêng giới thiệu về NHCSXH, về vốn tín dụng ưu đãi đối với HSSV phổ biến trên các kênh thông tin đại chúng, báo, đài địa phương và các chương trình lồng ghép thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, vốn CSTD ngày càng trở nên gần gũi với người nghèo, NHCSXH ngày càng trở thành địa chỉ tin cậy của người nghèo khi cần vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Đến nay đã có hơn 3,3 triệu lượt HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập. Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg được ban hành kịp thời, hợp lòng dân, góp phần tạo sự bình đẳng về học tập trong xã hội.

Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Giáo dục và Đào tạo, Lao động – Thương binh và Xã hội đã rất quan tâm phối hợp triển khai, nhất là Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bố trí vốn kịp thời nguồn vốn để cho HSSV vay trong những ngày đầu tiên triển khai và trong suốt quá trình thực hiện chính sách.

Thực thi chính sách tín dụng đối với học sinh sinh viên tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam - 10

Mạng lưới hoạt động của NHCSXH được tổ chức giao dịch đến tận xã thông qua 203.538 Tổ TK&VV nằm tại các thôn, ấp, bản, làng, với gần 11 ngàn điểm giao dịch tại xã của NHCSXH đã kịp thời nắm bắt được đối tượng và nhu cầu vay vốn từ cơ sở. Việc tổ chức giải ngân cho vay tại xã, cùng với phương thức ủy thác từng phần qua các tổ chức chính trị - xã hội là một nhân tố quan trọng, góp phần đẩy nhanh tiến độ cho vay đối với HSSV.

2.3.2. Những hạn chế

Trong quá trình hoạt động của mình, bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt động cho vay HSSV của NHCSXH chưa phát triển so với tiềm năng hoạt động của Ngân hàng và yêu cầu thực tiễn đặt ra. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, quy mô tín dụng chưa tương xứng với nhu cầu và số lượng các

đối tượng vay vốn. Theo kết quả hoạt động cho thấy, số HSSV được vay vốn tăng lên khá nhanh, tuy nhiên nếu so sánh con số này với số HSSV thuộc đối tượng vay vốn của tất cả các trường trong cả nước thì con số này còn chiếm tỷ lệ thấp, theo ý kiến của các trường thường xuyên liên hệ với NHCSXH thì còn khoảng 30% - 40% số HSSV thuộc đối tượng đủ điều kiện vay nhưng chưa được vay, đây là một trong những hạn chế đòi hỏi phải được xem xét.

Thứ hai, số lượng khách hàng chưa nhiều, chưa đồng đều giữa các vùng miền. Mặc dù chương trình tín dụng được triển khai từ năm 1998 đến nay và Chính phủ đã có những Quyết định bổ sung, thay đổi chính sách đầu tư nhưng khối lượng tín dụng và số lượng HSSV vay vốn chưa nhiều và chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố ở khu vực Bắc Trung Bộ như: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,…. Số lượng HSSV vay vốn tại một số tỉnh ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao như khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên còn thấp.

Thứ ba, tỷ lệ nợ quá hạn còn chưa được phản ánh đúng các khoản nợ quá hạn, một số HSSV sử dụng vốn vay chưa đúng mục đích.

Hoạt động CSTD luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nhưng đến nay, cơ chế xử lý khoanh nợ và xử lý rủi ro đối với chương trình cho vay HSSV chưa được cụ thể. Việc chỉ huy động được những nguồn vốn trong ngắn hạn nhưng ngân hàng lại phải cho vay không có tài sản thế chấp cũng như không có sự tham gia của vốn chủ sở hữu vào hoạt động sản xuất của những hộ vay vốn, nên khi xảy ra rủi ro đối với các hộ vay thì khả năng mất vốn của ngân hàng là rất lớn. Vì vậy việc thu hồi vốn để tiếp tục cho vay rất khó khăn và ảnh hưởng lớn đến tổng nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán của ngân hàng.

Thứ tư, Chất lượng tín dụng có nơi, có lúc chưa tốt. Nhiều nơi còn xảy ra việc tham ô, tham nhũng, phân phối vốn theo phương thức chia đều xẻ mỏng … Công tác thu hồi nợ quá hạn nhất là các khoản nợ chây ỳ phát sinh từ trước khi nhận bàn giao còn nhiều lúng túng.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

a) Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, chính sách cho vay chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Có thể thấy, tín dụng đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn của NHCSXH còn thực hiện dàn trải, cào bằng. Mức cho vay bình quân tuy có tăng qua các năm nhưng so với số vốn vay tối đa được phép vay là quá nhỏ. Do đó, HSSV được vay vốn ở mức hạn chế dẫn đến nhiều trường hợp HSSV vay vốn không đủ để trang trải chi phí học tập và sinh hoạt tại trường.

Chính sách lãi suất thấp, ưu đãi đối với HSSV chỉ có thể hỗ trợ trong thời gian có hạn. Đối với trường hợp Ngân hàng có khả năng huy động vốn với lãi suất thấp tại bất kỳ thời điểm cần vốn thì việc cho vay với lãi suất ưu đãi là có thể thực hiện được. Tuy nhiên, NHCSXH chỉ sử dụng 20% vốn của Nhà nước trong giai đoạn đầu khi mới đi vào hoạt động và để phát triển bền vững, ngân hàng cần huy động nguồn vốn chủ yếu từ người dân theo lãi suất thị trường. Trong trường hợp này lãi suất cho vay khó có thể thể duy trì ở mức lãi suất ưu đãi.

Thứ hai, công tác cho vay còn nhiều bất cập.

Do việc triển khai CSTD đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTg được diễn trên phạm vi không gian rộng (trên tất cả mọi miền đất nước), khối lượng tín dụng và số lượng HSSV vay vốn lại nhiều nên NHCSXH không tránh khỏi những lúng túng và khó khăn, nhất là khâu phải phối hợp với với nhiều cơ quan chức năng để triển khai như: Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, khâu hướng dẫn thủ tục quy trình nghiệp vụ đối với người vay, đặc biệt là việc theo dõi nợ.

Hiện nay, NHCSXH chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng và xếp hạng chất lượng tín dụng nội bộ, do đó, chưa có đủ thông tin để phân tích tình hình tín dụng nhằm đề ra những biện pháp thích hợp nâng cao chất lượng.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ thực hiện cho vay còn thiếu về số lượng và chất lượng.

Khối lượng nguồn vốn lớn, đối tượng hưởng thụ chính sách nhiều, đội ngũ cán bộ ngân hàng còn hạn chế về số lượng, tiến độ giải ngân có lúc chưa đáp ứng yêu cầu.

NHCSXH hiện có Sở giao dịch tại 63 chi nhánh cấp tỉnh và hơn 600 phòng giao dịch cấp huyện. Theo yêu cầu của việc phát triển cho vay đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn, NHCSXH phải mở rộng hệ thống các chi nhánh đến tận cấp cơ sở, nhất là các huyện vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo là những nơi có rất nhiều khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay tại mỗi phòng giao dịch có từ 5 - 7 cán bộ làm công tác cho vay của cả huyện, mỗi cán bộ chịu trách nhiệm cho vay 5 -7 xã. Mặt khác, cán bộ của ngân hàng có trình độ không đồng đều, một phần do tập trung từ nhiều bộ phận khác nhau (tiếp nhận từ NHNo&PTNT, từ các cơ quan khác và tuyển dụng mới).

Do đặc trưng của công tác cho vay của NHCSXH có những khó khăn về thu nhập, phương tiện làm việc. Đây không chỉ là những trở ngại với ngân hàng mà còn là những thử thách thực sự đối với từng cán bộ, nhân viên của ngân hàng, đòi hỏi cán bộ phải có phẩm chất tận tụy và tâm huyết với người nghèo. Tại nhiều địa phương, cơ sở vật chất thiếu thốn, nhiều khi thiếu cả những phương tiện cần thiết phục vụ công tác nghiệp vụ, cán bộ phải sử dụng phương pháp thủ công nên mất nhiều thời gian mà hiệu quả công việc không cao.

Với số lượng nhân viên đông đảo lại phân bổ trên một địa bàn rộng lớn, Trung tâm đào tạo của ngân hàng cũng mới đươc thành lập nên công tác tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ công nhân viên chưa được thường xuyên, liên tục. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ nhân viên cũng như hiệu quả của các dự án.

Thứ tư, sự phối hợp giữa NHCSXH với các tổ chức chính trị - xã hội và nhà trường trong quản lý cho vay, tính liên đới trách nhiệm đối với các thành viên tổ TK&VV chưa cao.

Việc xây dựng và ký kết các văn bản, hợp đồng ủy thác giữa NHCSXH với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ TK&VV, chưa có quy định rõ trách nhiệm vật chất của các bên tham gia, đây cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của Chương trình.

Tính liên đới trách nhiệm giữa các thành viên tổ TK&VV có vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng đối với HSSV của NHCSXH. Do hoạt động tín dụng đối với HSSV có rủi ro cao vì cho vay không có tài sản đảm bảo, dựa trên tín chấp và tính liên đới trách nhiệm giữa các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên, việc quy định về tính liên đới trách nhiệm trong việc vay vốn và trả nợ ngân hàng hiện mới chỉ là quy định chung chung, nhiều trường hợp hộ vay không trả được nợ, chây ỳ, nhưng các thành viên khác vẫn tiếp tục được vay vốn. Điều đó làm ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay của NHCSXH.

Thứ năm, nguồn vốn chưa đáp ứng được nhu cầu lâu dài về phát triển hoạt động cho vay HSSV.

NHCSXH chưa xây dựng được chiến lược nguồn vốn ổn định, lâu dài. Đây là chương trình tín dụng có khối lượng tín dụng lớn (từ 30 đến 35 ngàn tỷ đồng) có thời hạn vay vốn dài, bình quân là 5 năm học chưa có thu nợ quay vòng, sau khi ra trường một năm và bắt đầu từ năm thứ 7 trở đi mới thu gốc và lãi món đầu tiên (trừ học sinh học nghề có thời gian học ngắn hạn). Vì vậy, cần thiết phải bố trí nguồn vốn dài hạn, ổn định để đầu tư cho chương trình này. Việc triển khai cho vay thời gian vừa qua cho thấy việc bố trí nguồn vốn rất bị động (ghi tạm ứng từ nguồn Kho bạc Nhà nước hàng năm) nên thời hạn nguồn vốn không ổn định và không rõ ràng, gây khó khăn trong quá trình triển khai.

Thứ sáu, công tác thông tin tuyên truyền phổ biến chính sách còn hạn chế Tổ chức thực hiện ủy thác cho vay tại một số chi nhánh NHCSXH cấp

huyện chưa được quan tâm sâu sát, công tác tuyên truyền, quán triệt các chủ trương, chính sách cho vay đối với HSSV còn hạn chế và chưa sâu, đặc biệt là tuyên truyền đến các thành viên tổ TK&VV về chủ trương không ủy thác thu nợ gốc cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ trưởng tổ TK&VV, do đó, các hộ vay

vẫn quen nếp cũ nộp tiền trả nợ gốc cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ trưởng tổ TK&VV, tạo cơ hội cho một số đối tượng tham ô, chiếm dụng vốn.

b) Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, về phía khách hàng: Một số hộ gia đình còn chưa nắm được thông tin về chính sách, không dám vay vốn vì lo ngại việc trả nợ. Một số hộ gia đình có từ 2 đến 3 HSSV vay vốn cũng có nhiều băn khoăn, lo lắng về khả năng trả nợ, trả lãi tiền vay sau khi con em ra trường. Số HSSV có hoàn cảnh khó khăn đi học nghề thời hạn đào tạo dưới 01 năm và HSSV ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa vay vốn còn thấp. Chủ yếu các gia đình có hoàn cảnh khó khăn vay vốn cho con đi học đại học và cao đẳng, số gia đình vay vốn cho con đi học trung học và học nghề, đặc biệt là học nghề ngắn hạn chưa nhiều.

Một bộ phận HSSV không tìm được việc làm hoặc có thu nhập thấp khi ra trường thì việc trả nợ gốc và lãi hàng tháng là rất khó khăn. Nhất là gia đình đã rất khó khăn về kinh tế, không có nguồn kinh phí khác hỗ trợ thì càng không có điều kiện trả nợ đúng hạn (diện đặc biệt khó khăn, mồ côi). Một số HSSV còn xem vốn vay từ quỹ là vốn cho, cấp nên khi ra trường chưa có ý thức trả nợ Ngân hàng.

Thứ hai, về cơ chế chính sách: Các Quyết định của chương trình trước Quyết định số 157/2007/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ quy định phương thức cho vay, phương thức thu nợ, thu lãi khác với Quyết định 157/2007/QĐ- TTg, gây hiểu lầm và khó khăn trong quá trình quản lý và theo dõi cho người vay và ngân hàng.

Chế độ tài chính của NHCSXH tuy đã được bổ sung, điều chỉnh nhiều lần nhưng chưa có tính ổn định, chưa tạo thế chủ động cho NHCSXH và chưa thực sự kích thích đội ngũ cán bộ gắn bó với công việc.

Bên cạnh đó, cơ chế khoán tài chính của NHCSXH căn cứ theo Thông tư số 24/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính thực hiện khoán tài chính căn cứ theo dư nợ tín dụng điều này sẽ khuyến khích các đơn vị trong hệ thống

NHCSXH tăng cường giải ngân hơn là quan tâm đến thu nợ, thu lãi cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng.

Cơ chế trích lập dự phòng của NHCSXH (trích lập dự phòng chung 2% trên dư nợ bình quân) khác với các NHTM khác theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Thứ ba, về môi trường kinh tế - xã hội: Phương thức ủy thác bán phần qua các tổ chức chính trị - xã hội mặc dù có hiệu quả hơn hẳn so với phương thức ủy thác toàn phần qua NHNo&PTNT Việt Nam trước đây. Tuy nhiên, phương thức này cũng bộc lộ một số hạn chế làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng HSSV. Cán bộ tổ chức hội thường có ít hiểu biết về lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Do thời gian vay vốn dài, số tiền vay nhận theo từng kỳ nhỏ lẻ nên Tổ trưởng khó quản lý, theo dõi trong suốt quá thời gian vay vốn của hộ gia đình. Hơn nữa do trong thời gian phát tiền vay người vay chưa phải trả lãi, gây tâm lý Tổ trưởng không muốn kết nạp hoặc xét duyệt cho vay đối với hội gia đình có nhu cầu vay vốn cho con đi học, bởi vì không thu lãi thì Tổ trưởng không được hoa hồng do Ngân hàng chi trả (kể cả khoản phí ủy thác tổ chức hội được hưởng).

Thứ tư, về môi trường pháp lý: Nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, chưa nghiên cứu kỹ văn bản để hướng dẫn và chỉ đạo sâu sát nên ở một số nơi, quá trình bình xét, xác nhận cho vay còn chưa đúng đối tượng.

HSSV có hoàn cảnh khó khăn vay vốn của NHCSXH là đối tượng chính sách được Nhà nước quy định theo tiêu chí phân loại do Nhà nước trung ương hoặc địa phương quy định và do cấp xã điều tra, công nhận. Tuy nhiên, danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn phục vụ cho việc xét duyệt cho vay không sát thực tế, đã tạo kẽ hở trong

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/12/2022