phòng đọc của thư viện là rất tốt, và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ NDT của CBTV là cao.
Người dùng được tin tự do trong việc lựa chọn các sản phẩm và dịch vụ TT-TV phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, học tập, giải trí của mình.
3.1.2 Hạn chế:
Tại thư viện, để tìm kiếm tài liệu theo nhu cầu của NDT còn gặp nhiều khó khăn, bởi phần mềm quản lý thư viện chưa được đảm bảo về mặt khoa học trong quản lý lẫn tính ổn định của phần mềm.
NDT tra cứu chủ yếu trên tủ mục lục, tuy nhiên thư viện mới chỉ có mục lục phân loại, chưa có mục lục chủ đề và mục lục chữ cái. Điều đó khiến việc tra tìm tài liệu của bạn đọc bị hạn chế .
Mục lục truyền thống gây mất rất nhiều thời gian trong việc tìm kiếm, thêm nữa là ý thức của NDT khi sử dụng hộp phích xong không xếp đúng vị trí, có trường hợp làm rách và xé phích.
Website: http://server8080/libsđược kết nối mạng cục bộ, điều này khiến NDT không thể truy cập khi ra khỏi Thư viện, hạn chế việc tra tìm tài liệu khi ở bất kỳ nơi đâu của NDT.
Thư viện đã có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung vốn tài liệu, song chưa đảm bảo phục vụ tối đa nhu cầu của NDT. Trong thời đại “bùng nổ thông tin” như hiện nay thì vấn đề cập nhật thông tin của tài liệu vẫn chưa được kịp thời. Nhiều tài liệu đã xuất hiện trên thị trường nhưng thư viện lại chưa kịp thời bổ sung để phục vụ bạn đọc. Việc lựa chọn nguồn tài liệu bổ sung vẫn còn nhiều hạn chế, chưa có sự phối kết hợp từ một số Khoa, một số đơn vị trong Trường, làm ảnh hưởng tới sự bổ sung kịp thời nguồn lực thông tin.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng Thống Kê Sách Giáo Trình Và Sách Tham Khảo Theo Lĩnh Vực Chuyên Môn.
- Dịch Vụ Thông Tin-Thư Viện Tại Thư Viện Trường Đại Học Công Nghệ Giao Thông Vận Tải
- Tìm hiểu sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Thư viện Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải - 6
- Tìm hiểu sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Thư viện Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải - 8
Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.
Nguồn tin điện tử hiện chưa đáp ứng được hết nhu cầu bạn đọc, bởi hiện nay thư viện chỉ có thể Download các tài liệu miễn phí trên mạng về và xây dựng thành các biểu ghi, chưa được đầu tư kinh phí để Download các tài liệu trả phí.
Tại Thư viện, NDT chủ yếu tìm tin dưới 2 hình thức: thông qua CSDL (máy tra cứu) và thông qua danh mục tài liệu (tủ mục lục). Tuy nhiên cả hai hình thức này vẫn chưa thật sự đáp ứng được hết nhu cầu tin của NDT.
Danh mục tài liệu dạng in ấn trong quá trình sử dụng có thể bị rách, nát hoặc mất trang, nếu không được bổ sung kịp thời sẽ không giới thiệu tới bạn đọc được hết tài liệu trong kho. Danh mục sách chỉ cung cấp tới bạn đọc về tên tài liệu, tên tác giả, mà chưa cho phép có tóm tắt nội dung tài liệu, khiến bạn đọc phân vân trong khi lựa chọn tài liệu để tìm tin.
Hiện nay, thư viện đang tiến hành biên mục tài liệu trên phần mềm thư viện Libol6.0, phần mềm này vẫn chưa được đưa vào tra cứu, khiến bạn đọc gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tìm tài liệu như: phải tra tìm mất nhiều thời gian trên tủ mục lục, số lượng bạn đọc tra tìm tài liệu nhiều nhưng chỉ có duy nhất 1 tủ mục lục.
Các sản phẩm và dịch vụ TT-TV luôn đóng vai trò bậc nhất trong việc nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc, khẳng định tính hiệu quả và vị thế của thư viện trong trường đại học. Tuy nhiên hiện nay tại Thư viện nhiều sản phẩm và dịch vụ TT-TV còn thiếu và yếu:
- Các sản phẩm như thông tin tóm tắt, tổng luận; các dịch vụ dịch tài liệu, dịch vụ tư vấn và những sản phẩm dịch vụ TT-TV có giá trị gia tăng cao rất hữu ích đối với người làm công tác quản lý và nghiên cứu khoa học ở trường, hiện nay công việc này chưa có kế hoạch để triển khai thực hiện.
- Dịch vụ học nhóm, dịch vụ trao đổi thông tin, cung cấp thông tin chọn lọc,… là những dịch vụ cần có tại thư viện, nhưng hiện nay các dịch vụ này
chưa có mặt tại thư viện.
Thư viện vẫn khó thoát khỏi hoàn toàn vỏ bọc truyền thống lâu đời do chưa bắt kịp với sự đổi mới hiện nay. Vì vậy, các sản phẩm và dịch vụ TT-TV tại Thư viện chưa được phong phú:
- Mô hình dịch vụ TT-TV còn đơn điệu, chủ yếu cung cấp các dịch vụ phổ biến như mượn-trả tài liệu, đọc tài liệu tại chỗ, tra cứu tài liệu.
- Dịch vụ hỏi-đáp, dịch vụ tư vấn, tham khảo còn ở mức quá đơn giản,
chưa hình thành nên một sản phẩm dịch vụ hoàn chỉnh: sinh viên là người hỏi- CBTV là người trả lời câu hỏi, giải đáp.
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ thông tin-thư viện tại Thư viện Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải
3.2.1 Tăng cường nguồn lực thông tin
Hiệu quả hoạt động của Thư viện trước hết phụ thuộc vào chất lượng và sự đầy đủ các nguồn thông tin. Bất kỳ một Cơ quan TT - TV nào muốn hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình trước tiên phải xây dựng được vốn tài liệu đầy đủ, lớn mạnh về số lượng, phong phú về chủng loại, với chất lượng tốt, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của NDT.
Thư viện ngoài việc sử dụng nguồn kinh phí do nhà trường cung cấp hàng năm theo kế hoạch, cần năng động hơn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, từ các tổ chức, cá nhân hợp tác cùng thư viện.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường, thư viện đã xây dựng cho mình một nguồn tin khá phong phú về chủng loại và phù hợp với chương trình giảng dạy của Nhà trường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và sự thay đổi chóng mặt của thông tin, thì nguồn lực thông tin vẫn hạn chế về số lượng, chất lượng và tính thời sự của thông tin về các lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo. Chính những hạn chế này đã kìm hãm khả năng đáp ứng thông tin cho bạn đọc. Vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng nhất hiện nay đặt ra với thư viện là phải tăng cường nguồn lực thông tin tại thư viện.
Với nguồn lực thông tin hiện có, thư viện cần có kế hoạch thanh lọc, thanh lý những tài liệu cũ, nát, không còn giá trị sử dụng. Làm tốt công tác này, kho tài liệu của thư viện không những không bị giảm đi về chất lượng mà còn tạo điều kiện tăng diện tích kho để bảo quản tốt các tài liệu mới bổ sung.
Bên cạnh tài liệu truyền thống, thư viện cần chú trọng hơn nữa việc download, sưu tầm và biên mục CSDL tài liệu điện tử để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập cho sinh viên và bạn đọc.
Vấn đề hồi cố tài liệu (xử lý các tài liệu đã có trong kho) cần được thư viện tiến hành thường xuyên, có kế hoạch cụ thể.
Có kế hoạch mua CSDL điện tử và phương pháp quản lý chặt chẽ và có những thông báo đến bạn đọc để bạn đọc dễ dàng tiếp cận, sử dụng nguồn tin phù hợp với mình.
3.2.2 Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm và dịch vụ thông tin-thư viện
Sản phẩm thông tin được xác định là kết quả của quá trình xử lý thông tin và là công cụ giúp cho việc tìm kiếm thông tin. Dịch vụ thông tin được xác định là toàn bộ các công việc, hoạt động, quá trình hay phương thức mà Cơ quan đưa ra nhằm đáp ứng các loại nhu cầu thông tin trong xã hội.Vì vậy bên cạnh việc tự hoàn thiện và phát triển bền vững các sản phẩm và dịch vụ đã có, thư viện cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin, tạo điều kiện tốt nhất cho NDT khi họ đến khai thác thông tin tại thư viện.
- Xây dựng Cơ sở dữ liệu nội sinh:
Nhu cầu của NDT sử dụng các loại hình tài liệu như đề cương, giáo trình chiếm tỉ lệ nhiều hơn các sản phẩm khác, trong khi đó nguồn tài liệu này tại thư viện chưa đáp ứng được nhu cầu NDT. Hơn nữa trong quá trình hoạt động thư viện, nhiều NDT muốn tìm các tài liệu như: Báo cáo khoa học, Đồ án tốt
nghiệp… tới cả việc tham khảo các luận văn, luận án. Tuy nhiên, nhu cầu này chưa thật sự được đáp ứng.
Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu của NDT về các tài liệu nội sinh, Thư viện cần có chính sách xây dựng nguồn tài liệu có chất lượng khoa học, đặc biệt là
xây dựng Cơ sở dữ liệu luận án, luận văn, khóa luận, các công trình nghiên cứu khoa học,…
- Triển khai dịch vụ phòng học nhóm:
Dịch vụ phòng học nhóm rất tiện ích cho những bạn đọc mong muốn được trao đổi thông tin với nhau trong quá trình học hoặc mong muốn rèn luyện kỹ năng trình bày bài học của mình. Đây là một dịch vụ được phát triển nhiều ở các Thư viện ngoài nước và ở Việt Nam hiện nay đang được triển khai áp dụng ở nhiều thư viện.
Hơn nữa, NDT tới thư viện chủ yếu là tự học, trong khi đó chuyên ngành đào tạo chủ điểm của trường là ngành Công trình, Xây dựng, sinh viên thường làm bài tập lớn, trao đổi, vẽ, … Việc này thường khiến các bạn trao đổi rất ồn
ào, gây mất trật tự cho những sinh viên xung quanh, nên để hạn chế việc mất trật tự tại thư viện và tạo được cho NDT không gian học tập trao đổi thực sự, cần có phòng học nhóm cho các đối tượng NDT. Tôi thấy đây là một nhu cầu bức thiết, và triển khai dịch vụ phòng học nhóm này không còn là mới đối với hoạt động thư viện tại các trường Đại học ở Việt Nam. Đây cũng là một dịch vụ góp phần phát triển hoạt động thư viện, nâng cao nhu cầu sử dụng thư viện vào mục đích học tập của NDT.
- Trang bị thêm Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dịch vụ sao chụp tài liệu gốc:
Dịch vụ sao chụp tài liệu gốc là dịch vụ cung cấp tài liệu gốc dưới dạng sao chụp lại cho NDT trong trường hợp họ muốn có tài liệu để sử dụng lâu dài hoặc tài liệu đó không được phép mang về nhà. Phần đông NDT đều có nhu cầu đối với dịch vụ này, nhưng hiện nay thư viện chưa có đầy đủ các trang thiết bị phục vụ nhu cầu thiết yếu của họ. Vì vây, cần trang bị thêm máy photocopy, máy in cho tất cả các phòng chức năng trong thư viện.
Dịch vụ cung cấp bản sao tài liệu. Dịch vụ cung cấp bản sao tài liệu là một trong số các dịch vụ thông tin phổ biến tại các loại hình cơ quan thông tin thý viện khác nhau. Việc cơ quan thông tin thý viện tiến hành sao chụp bất cứ tài liệu loại nào và với bất kỳ mục đích nào cũng có những ảnh hưởng nhất định
đối với quyền lợi của tất cả những chủ thể liên quan. Ðó là một thực tế. Ðể tránh gây các tổn hại về quyền lợi của các nhà xuất bản và cơ quan lưu trữ, việc triển khai dịch vụ cung cấp bản sao tài liệu cần tuân thủ một số quy tắc nhất định. Cụ
thể: Người sử dụng dịch vụ là ngýời dùng tin trực tiếp, do đó, cần hạn chế đến mức cao nhất việc sao chụp toàn bộ một tài liệu và số lượng bản sao chụp; Không có chi phí bản quyền khi thanh toán dịch vụ; Cần tạo ra sự khác biệt dễ nhận biết được giữa bản được chụp và bản chụp; Trên mỗi bản sao chụp, cần thể hiện rõ ràng, chính xác và đầy đủ những thông tin chính liên quan đến việc triển khai và sử dụng dịch vụ.
Dịch vụ thông tin luôn thay đổi để phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Dịch vụ cung cấp tài liệu sao chụp cũng không là ngoại lệ. Khi đối tượng cần được sao chụp là các tài liệu dạng số, thì đương nhiên, bản chất của dịch vụ lại trở thành dịch vụ truyền tệp, hoặc đơn giản chỉ là sự cho phép người dùng tin truy cập và tải các tệp dữ liệu đối với các nguồn tin cụ thể. Đương nhiên khi đó, vấn đề quản lý và khai thác dịch vụ trở nên đa dạng và khó kiểm soát hơn. Chính vì thế, vấn đề sử dụng các ưu đãi một cách hợp lý, việc phát triển dịch vụ cung cấp nội dung thông tin luôn là một trong các vấn đề cần quan tâm từ nhiều khía cạnh khác nhau, từ quyền lợi của những nhóm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác nhau.
- Xây dựng phòng đọc mở và phòng đọc ngoại văn:
Phần lớn NDT chưa thỏa mãn về các tài liệu mình chọn mượn, bởi trên mục lục phiếu không cung cấp đủ thông tin nội dung tài liệu cần mượn, đối với CSDL thì phần mềm Libol 6.0 hiện tại chưa ổn định. Hơn nữa cán bộ thư viện không thể cùng một lúc phục vụ từ 5 đến 7 bạn đọc. Vì vậy xây dựng và phát triển kho mở là hết sức cần thiết, phục vụ đáp ứng tối đa nhu cầu NDT, giảm thiểu sức lao động của cán bộ thư viện.
Có thể thấy, phần lớn NDT của trường hạn chế về trình độ ngoại ngữ, tài liệu tại thư viện phục vụ cho nhu cầu nâng cao trình độ này còn yếu và thiếu.
Nên phát triển và xây dựng kho tài liệu ngoại văn, thúc đẩy khả năng sử dụng tài liệu ngoại ngữ, góp phần xây dựng sự nghiệp giáo dục đào tạo toàn diện của Trường Đại học CN GTVT.
3.2.3 Xây dựng và đẩy mạnh các hoạt động phát triển thư viện
Tăng cường chia sẻ nguồn lực thông tin với các thư viện trong ngành như: TV Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội; Thư viện Đại học Kiến trúc; Thư viện Đại học Thủy lợi; ... , chia sẻ nguồn lực thông tin với các thư viện trong nước và tiến tới sẽ tham gia “Liên hiệp thư viện các trường Đại học khu vực phía Bắc”.
Chia sẻ nguồn lực thông tin là một giải pháp thiết thực để tránh mua phải những tài liệu không cần thiết, tạo ra mức độ đầy đủ cao cho nguồn lực thông tin và tiết kiệm được ngân sách nhà trường.
Để khắc phục vấn đề thiếu thông tin, việc chia sẻ nguồn tin là một giải pháp nhất thiết phải thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Việc chia sẻ nguồn lực thông tin đúng mục đích sẽ đem lại nhiều lợi ích cho NDT và cho chính Cơ quan TT – TV. Vấn đề đặt ra là Thư viện cần có những kế hoạch cụ thể trong việc trao đổi và chia sẻ nguồn lực thông tin. Đặc biệt là thư viện các Trường Đại học như: Đại học Bách Khoa, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Giao thông Vận
tải, Đại học Công nghiệp Hà Nội, … Đây là những trường có các lĩnh vực đào tạo giống nhau nên dễ dàng trong việc trao đổi các nguồn tin điện tử, các CSDL sách, tạp chí, luận văn, luận án, … để bạn đọc trong Trường có thêm nguồn lực thông tin trong quá trình nghiên cứu.
- Tăng cường dịch vụ trao đổi thông tin:
Dịch vụ trao đổi thông tin thường được tổ chức dưới các hình thức: cuộc triển lãm, cuộc hội thảo, hội nghị khoa học, tọa đàm về những chủ đề được NDT quan tâm. Để xây dựng và phát triển dịch vụ này, thư viện cần có chính sách quan hệ với các Trung tâm Thông tin-Thư viện trong nước và quốc tế.
Thư viện cần chủ động tổ chức các hội nghị, hội thảo có sự tham dự của lãnh đạo nhà trường, các cán bộ Thư viện và NDT về các vấn đề: Cơ sở vật chất, nguồn lực thông tin, dịch vụ thông tin-thư viện hiện có, chất lượng, thái độ phục vụ của cán bộ thư viện, nhu cầu bạn đọc, ý thức bạn đọc trong quá trình sử dụng các sản phẩm và dịch vụ TT-TV. Từ đó có kế hoạch phát triển các sản phẩm và dịch vụ TT-TV một cách đúng hướng, đúng với nhu cầu NDT.
3.2.4 Đẩy mạnh quảng bá các sản phẩm và dịch vụ thông tin-thư viện
Quảng bá hay marketing trong các Cơ quan TT-TV nhằm mục đích nắm bắt được nhu cầu đọc, NCT của người sử dụng, tìm ra những con đường tốt nhất để thoã mãn nhu cầu này. Marketing dịch vụ sản phẩm TT-TV tập trung vào các khái niệm: cung cấp sản phẩm, dịch vụ phù hợp cho đúng đối tượng sử dụng với giá cả hợp lý thông qua những phương án tiếp xúc hiệu quả.
- Thư viện cần tổ chức các hoạt động nhằm thu hút hơn nữa số lượng NDT đến với thư viện như câu lạc bộ bạn đọc, triễn lãm các sản phẩm TT-TV, hoặc tổ
chức trưng bày, giới thiệu sách theo một chủ đề, nhân vật, ... Các hoạt động trên cần được thực hiện thường xuyên và đều đặn 1 lần / tuần
- Cán bộ thư viện cần tăng cường việc quảng bá Thư viện, giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ TT-TV trên các Website công cộng, các mạng Xã hội như Facebook.com; me.zing.vn; ... để bạn đọc biết và ngày càng quen thuộc với Thư viện.
- Bên cạnh đó, cán bộ thư viện cần đẩy mạnh việc quảng cáo thư viện qua các bảng thông báo trong trường, các bảng tin trong khu vực trường. Ngoài ra, còn quảng bá thư viện vượt ra ngoài phạm vi của trường để quảng bá thư viện tới đông đảo NDT khác qua các phương tiện truyền thông, pano, áp phích, tờ rơi, ...
3.2.5 Đào tạo cán bộ thư viện và người dùng tin
a. Đối với cán bộ Thư viện
Môi trường xã hội là môi trường cạnh tranh quyết liệt, trong nghề TT-TV cũng có sự cạnh tranh, cạnh tranh giữa tri thức và sự hiểu biết, đòi hỏi mỗi cán bộ TT-TV phải không ngừng học hỏi, tìm tòi và sáng kiến. Ngoài trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học, trình độ ngoại ngữ, các cán bộ TT-TV
cần phải có khả năng quản lý, kiến thức liên ngành, khả năng thuyết trình và làm việc nhóm,…
Yêu cầu đặt ra, người cán bộ thư viện vừa phải trau dồi tiếp thu những kiến thức mới từ thành quả của CNTT và truyền thông, vừa phải trau dồi kỹ năng kiến thức của hoạt động thư viện truyền thống để tiếp thu kiến thức thư