Chiến lược đa dạng hoá chiều ngang được thực hiện khi xuất hiện các tình huống sau:
- Khi doanh thu từ sản phẩm dịch vụ thông tin di động hiện đang sản xuất cung cấp tăng lên nhiều do có thêm những sản phẩm, dịch vụ mới không có liên hệ.
- Khi sản phẩm dịch vụ có khả năng nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Khi các sản phẩm dịch vụ thông tin di động mới có kiểu doanh thu không có tính tuần hoàn so với sản phẩm dịch vụ hiện có của doanh nghiệp.
3.2.3. Đa dạng hoá hỗn hợp
Trong phương án này, công ty đưa vào sản xuất và cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới không có liên hệ gì về mặt công nghệ và thương mại với các sản phẩm, dịch vụ hiện có của doanh nghiệp nhưng lại có khả năng thu hút những nhóm khách hàng mới cho doanh nghiệp. Trong hình thức đa dạng hoá hỗn hợp, các sản phẩm dịch vụ mới ra đời có rất ít hay thậm chí không hề có liên hệ với lĩnh vực kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp.
Ví dụ: Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel bên cạnh việc kinh doanh dịch vụ thông tin di động còn phát triển sang nhiều ngành nghề khác như kinh doanh bất động sản, mua bán vàng bạc đã quý và các kim loại quý, xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin…
Nguyên nhân chủ yếu để doanh nghiệp quyết định đa dạng hoá hỗn hợp là làm tăng khả năng sinh lời và tính linh hoạt của doanh nghiệp, tạo cơ hội tiếp nhận được nguồn vốn lớn hơn, tận dụng tốt hơn các nguồn lực sẵn có khi mở rộng kinh doanh. Việc theo đuổi chiến lược đa dạng hoá hỗn hợp đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin di động phải có đủ năng lực, nguồn lực về tài chính, con người, công nghệ và hệ thống sơ sở hạ tầng để
thực hiện. Đồng thời, chiến lược này cũng đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất lớn nên khiến lợi nhuận trước mắt bị suy giảm, vì vậy doanh nghiệp cần dự báo chính xác nhu cầu thị trường nếu không sẽ rơi vào tình thế bị động trong sản xuất kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp hoàn thiện chính sách đa dạng hóa sản phẩm tại công ty thông tin di động Việt Nam VMS - 1
- Một số giải pháp hoàn thiện chính sách đa dạng hóa sản phẩm tại công ty thông tin di động Việt Nam VMS - 2
- Chính Sách Đa Dạng Hoá Sản Phẩm Trong Kinh Doanh Dịch Vụ Thông Tin Di Động
- Thực Trạng Chính Sách Đa Dạng Hoá Sản Phẩm Tại Công Ty Thông Tin Di Động Việt Nam
- Thuận Lợi Và Khó Khăn Đối Với Công Tác Thực Hiện Đa Dạng Hoá Sản Phẩm Tại Vms - Mobifone
- Số Lượng Dv Gtgt Của Các Mạng Di Động Tại Việt Nam Tính Đến Tháng 12/2009
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Chiến lược đa dạng hoá hỗn hợp được sử dụng khi xuất hiện các tình huống sau:
- Khi doanh thu và lợi nhuận của việc kinh doanh dịch vụ thông tin di động bị giảm sút.
- Khi doanh nghiệp có đầy đủ các nguồn lực để cạnh tranh thành công trong kinh doanh các sản phẩm dịch vụ mới.
- Khi sản phẩm dịch vụ hiện tại của doanh nghiệp bị bão hoà.
Đa dạng hoá sản phẩm là khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp trên toàn thế giới hiện nay. Các tổ chức kinh tế lớn như tập đoàn kinh doanh đều có xu hướng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, kinh doanh đa ngành và đa lĩnh vực hoạt động. Số lượng và chủng loại hàng hoá, dịch vụ được lưu thông, cung cấp trên thị trường thực chất cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhiều doanh nghiệp độc lập với các quy mô lớn nhỏ khác nhau cũng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và trong thực tế việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đã đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích cả về mặt kinh tế (tăng lượng sản phẩm bán ra, do đó tăng doanh thu, lợi nhuận) và mặt phi kinh tế (định vị thương hiệu, củng cố hình ảnh trong tâm trí khách hàng).
Các doanh nghiệp có thể chọn thực hiện từng chính sách đa dạng hoá đơn lẻ hoặc kết hợp giữa hai hay cả 3 chính sách. Tuy nhiên để chính sách đa dạng hoá đem lại hiệu quả tối ưu, doanh nghiệp cần chọn cho mình hình
thức đa dạng hoá phù hợp với khả năng, điều kiện về vốn, cơ sở vật chất, nguồn lực sẵn có và phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
3.3. Sự cần thiết thực hiện đa dạng hoá sản phẩm trong kinh doanh dịch vụ thông tin di động
3.3.1. Nhu cầu thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên biến đổi
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống xã hội cũng được nâng cao về nhiều mặt, con người có đòi hỏi ngày càng cao cả về hình thức và nội dung ở các sản phẩm, dịch vụ họ tiêu dùng. Các sản phẩm, dịch vụ không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi chúng chỉ mang “lợi ích cốt lõi” đơn thuần mà còn phải mang tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về chủng loại[22]. Việc một số sản phẩm, dịch vụ có cùng giá trị sử dụng
nhưng có thêm một số đặc tính riêng biệt khác nhau để thoả mãn từng phân đoạn thị trường nhất định chính là một biểu hiện của hoạt động đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm tạo ra nhiều mặt hàng, dịch vụ mới phong phú với chất lượng cao sẽ đem lại cho người tiêu dùng nhiều cơ hội lựa chọn, do đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ.
Theo quy luật tất yếu, thị trường luôn vận động và biến đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn tạo ra những thách thức và cũng đồng thời mang đến những cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh sôi động, đầy cạnh tranh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn cố gắng làm mới và mở rộng danh mục sản phẩm, dịch vụ của mình dựa trên cơ sở hoàn thiện hơn nữa các sản phẩm hiện có song song với việc nghiên cứu, đưa vào sản xuất kinh doanh những mặt hàng mới để đáp ứng tốt nhất, đầy đủ nhất nhu cầu, thị hiếu
phong phú của khách hàng, tạo thế chủ động trên thị trường cạnh tranh gay gắt ngày nay[21].
3.3.2. Chu kì sống của sản phẩm dịch vụ ngày càng bị rút ngắn do sự tiến bộ của khoa học công nghệ
Chu kì sống của sản phẩm hay còn gọi là vòng đời sản phẩm là khoảng thời gian tồn tại của sản phẩm trên thị trường kể từ khi sản phẩm đó được thương mại hoá đến khi bị đào thải khỏi thị trường. Vòng đời sản phẩm dài hay ngắn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: Nhu cầu của người tiêu dùng, bản thân sản phẩm, các yếu tố môi trường vi mô và vĩ mô, các sản phẩm thay thế… [19]. Việc nghiên cứu vòng đời sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp có những kiến thức cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh, khai thác tốt các nguồn lực nhằm đảm bảo thành công cho các mục tiêu chiến lược của mình.
Thông thường, vòng đời sản phẩm dù là hữu hình hay vô hình cũng đều được chia làm 4 giai đoạn: thâm nhập, tăng trưởng, chín muồi và suy tàn.
- Giai đoạn thâm nhập:
+ Khối lượng sản phẩm bán ra thể hiện qua doanh số nói chung ở mức thấp, thậm chí rất thấp.
+ Chi phí quảng cáo đang phải duy trì ở mức cao nhằm giới thiệu sản phẩm và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Các chi phí khác cũng lớn như chi phí hoàn thiện sản phẩm, kênh luồng phân phối qua các khâu bán buôn và bán lẻ, xây dựng kho và cửa hàng, chi phí xúc tiến bán hàng.
+ Lợi nhuận hầu như chưa có, thậm chí phải tạm thời chấp nhận lỗ vốn vì tổng chi phí lớn, giá thành đơn vị sản phẩm cao, mức giá bán bước đầu phải duy trì thấp nhằm thu hút khách hàng.
+ Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là thâm nhập được sản phẩm, hấp dẫn được khách hàng để tăng doanh số.
- Giai đoạn tăng trưởng:
+ Lượng sản phẩm tiêu thụ và doanh số tăng nhanh hơn.
+ Giá thành sản phẩm từng bước giảm, quy mô sản xuất của doanh nghiệp từng bước được mở rộng song chi phí hoàn thiện sản phẩm và quảng cáo vẫn phải duy trì ở mức hợp lý.
+ Lợi nhuận xuất hiện và từng bước tăng.
- Giai đoạn chín muồi
+ Doanh số tăng mạnh và đạt mức cao nhất.
+ Giá cả ổn định ở mức cao hợp lý theo mức sản phẩm bán chạy, thị trường được mở rộng.
+ Lợi nhuận tăng nhanh tới mức cao nhất do doanh số và giá cả đều tăng, giá thành hạ (sản xuất hàng loạt, chi phí quảng cáo ở mức thấp nhất).
+ Cuối giai đoạn này, sau khi đạt cực đại, doanh số và lợi nhuận được duy trì ở mức bão hoà một thời gian nhất định rồi bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu trì trệ; sản phẩm kém chạy, khách hàng ít hơn.
- Giai đoạn suy tàn:
+ Doanh số và lợi nhuận giảm mạnh, những diễn biến xấu đi ngày càng sâu sắc.
+ Trước tình hình đó, doanh nghiệp phải giảm giá bán hàng, tăng chi phí quảng cáo, củng cố chất lượng sản phẩm, cải thiện kênh phân phối ở những khâu cần thiết, chú trọng cung cấp dịch vụ tốt hơn…Tuy nhiên, những nỗ lực trên chỉ có thể cải thiện tình hình ở một mức độ nhất định chứ không thể làm thay đổi quy luật. Do đó, doanh nghiệp cần nhanh chóng loại bỏ sản phẩm lỗi thời và kịp thời nghiên cứu bổ sung sản phẩm mới thay thế.
Ngày nay khoa học công nghệ đang phát triển với tốc độ nhanh như vũ bão. Một khối lượng đồ sộ các phát minh sáng chế ra đời đã tạo ra ngày càng
nhiều công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liệu mới. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng ngày càng rộng rãi vào sản xuất làm cho giai đoạn bão hoà và suy thoái của một sản phẩm, dịch vụ đến nhanh hơn. Đặc biệt, không ở đâu mà sự ứng dụng công nghệ lại phát triển nhanh và rộng rãi như trong lĩnh vực thông tin di động.
Sự thay đổi, lạc hậu nhanh chóng của công nghệ và sản phẩm không cho phép doanh nghiệp tự hài lòng với những gì hiện có mà phải tranh thủ nắm bắt kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và sử dụng những thành tựu ấy như một lợi thế cạnh tranh. Vì vậy doanh nghiệp phải luôn xem xét, đánh giá sản phẩm đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống, nếu đang ở giai đoạn bão hoà doanh nghiệp sẽ tìm cách cải tiến sản phẩm đó để kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hoặc chuẩn bị nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường. Sự xuất hiện của các ngành công nghệ mới là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm mới, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm như một phương thức phát triển tất yếu.
3.3.3. Đa dạng hoá sản phẩm giúp phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh
Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh là lợi nhuận nhưng trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, sự thành công của doanh nghiệp bị đe dọa bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Một cơ hội kinh doanh có khả năng thu lợi càng lớn thì mức độ rủi ro kinh doanh xảy ra đối với doanh nghiệp càng cao. Các nguyên nhân gây ra rủi ro có thể đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp như máy móc thiết bị không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, thiếu vốn, chất lượng nguồn nhân lực thấp...hay từ môi trường kinh doanh như sự thay đổi đột ngột nhu cầu, chính sách kinh tế của nhà nước...
Nhiều khi một dịch vụ di động mới được đưa ra thị trường không đáp ứng đúng nhu cầu, kỳ vọng của khách hàng, gây tổn hại lớn cho doanh nghiệp. Vì vậy khi xây dựng các phương án kinh doanh, doanh nghiệp cần quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro đảm bảo độ an toàn cao nhất cho doanh nghiệp. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro là thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để tạo ra các tuyến sản phẩm bổ sung lẫn nhau thay vì chỉ tập trung sản xuất một sản phẩm khi các yếu tố khách quan biến động có thể khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
3.3.4. Đa dạng hoá sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Một hiện tượng có tính phổ biến tồn tại trong các doanh nghiệp hiện nay là các nguồn lực không được tận dụng hết mức sản xuất thực tế. Sự lãng phí nguồn lực có thể do: đầu tư không đúng mục đích, đọng vốn lớn, không sử dụng hết công suất thiết bị máy móc hay không tận dụng được nguồn nhân lực một cách tối ưu. Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực sẵn có cho phép doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, đạt được lợi nhuận cao hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cũng góp phần thúc đẩy các dịch vụ khác cùng phát triển. Một đặc điểm của ngành viễn thông di động là các dịch vụ giá trị gia tăng luôn phải đi kèm với dịch vụ cơ bản. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, tạo được các dịch vụ giái trị gia tăng hấp dẫn người tiêu dùng thì chắc chắn số lượng người sử dụng dịch vụ cơ bản cũng tăng theo, kéo theo đó là lợi nhuận tăng và doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh của mình.
Như vậy, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm được coi là một xu hướng tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin di
động, giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển bền vững trong nền kinh tế hội nhập, cạnh tranh gay gắt hiện hay.
* * *
Tóm lại, chương một đã nêu ra các khái niệm cơ bản về dịch vụ, dịch vụ thông tin di động, đa dạng hoá dịch vụ; đi sâu tìm hiểu các đặc trưng của dịch vụ nói chung và của dịch vụ thông tin di động nói riêng cũng như đưa ra một số ví dụ cụ thể minh hoạ cho từng khái niệm. Dựa trên những lý luận trong chương một, chương hai của khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm tại công ty Thông tin di động Việt Nam. Bên cạnh việc xem xét những thuận lợi và khó khăn của công ty trong việc thực hiện chính sách này, khoá luận sẽ đánh giá những thành công và hạn chế trong công tác đa dạng hoá sản phẩm tại công ty và tìm hiểu một số nguyên nhân gây nên những hạn chế này.