Tiết Kiệm Chi Phí Hoạt Động Kinh Doanh Để Từ Đó Giảm Lãi Suất Cho Vay:

Có đủ điều kiện về con người, trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng.


1.3.4. Tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh để từ đó giảm lãi suất cho vay:


Lãi suất cho vay là một công cụ cạnh tranh mạnh của các ngân hàng thương mại. Giảm được lãi suất cho vay có nghĩa là tăng khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Lãi suất cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên các chi phí phải trả hợp lý phát sinh trong kỳ. Các loại chi phí ngân hàng có thể tiết kiệm được đó là:


Thứ nhất: Các ngân hàng hoàn toàn có thể giảm được chi phí trả lãi huy động nếu tạo được uy tín với khách hàng. Thực tế cho thấy đa số người dân lựa chọn gửi tiền vào một ngân hàng có uy tín cao, như các Ngân hàng thương mại Nhà nước với lãi suất thấp hơn, chứ không tin tưởng gửi tiền cho một ngân hàng trả lãi cao nhưng lại có uy tín thấp. Do đó, VCB cần phải không ngừng củng cố danh tiếng của mình, tạo cho khách hàng nhiều lợi ích khác ngoài khoản lãi suất được hưởng, từ đó có thể giảm được chi phí đầu vào và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.


Thứ hai: Tinh giảm bộ máy để có thể giảm đáng kể chi phí dành cho nhân viên, đồng thời phải sắp xếp bố trí hợp lý và đào tạo nâng cao kién thức nghiệp vụ chuyên môn nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác của mỗi cán bộ.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Thứ ba: Để giảm đi khoản chi dịch vụ mua ngoài, VCB cần ban hành những quy định về tiết kiệm, chống lãng phí, áp dụng cơ chế phạt tài chính kết hợp với khen thưởng trong thực hành quy định về tiết kiệm. Ngoài ra, VCB nên sớm tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, vì giúp cho tiết kiệm đáng kể chi phí văn phòng. Trên thực tế, sử dụng thương mại điện tử, tức là sử dụng những “văn phòng không giấy” (paperless ofice), theo số liệu của hãng General Elecetric của Hoa Kỳ sẽ giúp giảm đến 30% chi phí văn phòng... Ngoài ra, sử dụng thương mại điện tử cũng giúp giảm thiểu những chi phí khác như chi phí tiếp thị, quảng cáo, chi phí giao dịch...Trên thực tế, chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng

khoảng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% đến 20% chi phí thanh toán theo hình thức thông thường.

Tìm hiểu hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - 14


1.4. Đối với nghiệp vụ chiết khấu:


Đây là một nghiệp vụ phổ biến mà các ngân hàng thương mại đã và đang áp dụng để trợ giúp khách hàng của mình. Ngân hàng nên triển khai nghiệp vụ này trong chiến lược đa dạng hoá hình thức tài trợ đồng thời để có thể cạnh tranh với những ngân hàng khác, đặc biệt là ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Hiện nay các ngân hàng còn dè dặt khi khai thác nghiệp vụ này, đặc biệt là hoạt động chiết khấu miễn truy đòi. Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế và môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng để tạo nên sự khác biệt và tăng tính ưu việt của sản phẩm nhằm thu hút thêm khách hàng VCB nên khuyến khích và tạo điều kiện mở rộng cả hai hình thức chiết khấu.


1.5. Đối với nghiệp vụ bảo lãnh:


Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196 QĐ - NH14 ngày 16/9/1994 về “Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng”.Quyết định này hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay.Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 196, các ngân hàng thương mại đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho việc phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 196 NH – QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý như. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình khoảng 12%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi về mức độ rủi ro thì cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh nhằm phòng ngừa rủi ro...


Do đó, khi VCB áp dụng hình thức bảo lãnh xuất nhập khẩu thì cần lưu ý các điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho vay cùng loại:

Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng

Phân kỳ kế hoạch thu nợ

Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng.

Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ.


1.6. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức L/C và nhờ thu:


Như chúng ta đã biết, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro và rủi ro có thể xảy ra cho cả về phía khách hàng lẫn ngân hàng. Để phòng chống các yếu tố rủi ro, nhằm củng cố và tăng cường uy tín, an toàn cho ngân hàng và khách hàng của mình, VCB cần áp dụng một số biện pháp sau:

Về công tác điều hành: Tăng cường khả năng quản lý và kiểm soát việc chấp hành nghiêm chỉnh quy trình nghiệp vụ đã ban hành của ngân hàng Ngoại thương đối với các chi nhánh.

Về mặt nghiệp vụ:

Thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Thông qua hệ thống đại lý để điều tra, khai thác các thông tin về tình hình tài chính, về khả năng giao hàng và tư cách đạo đức của đối tác nước ngoài trong hợp đồng kinh tế.


Tư vấn cho khách hàng khi ký kết hợp đồng lựa chọn phương thức và các điều kiện thanh toán có lợi nhất. Trong quá trình thực hiện hợp đồng yêu cầu khách hàng phải thường xuyên theo dõi việc giao hàng, chứng từ...


Trong các hợp đồng tín dụng cho vay bằng ngoại tệ phải có phương pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và khách hàng. (áp dụng các công cụ phái sinh như Foward, Swap, Option...)

Chú ý đến các nghiệp vụ L/C đặc biệt là L/C xác nhận, chuyển nhượng... có nhiều đặc điểm riêng biệt, tính chất khác nhau, vì vậy khi thực hành các thanh toán viên phải đặc biệt tuân thủ quy trình và thông lệ quốc tế. Quản lý chặt các món bảo lãnh và L/C trả chậm: tiếp tục chấn chỉnh việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và mở L/C trả chậm. Tổ chức kết hợp chặt chẽ các phòng nghiệp vụ với nhau như: Phòng tín dụng, phòng thanh toán nhập, phòng thanh toán xuất, phòng bảo lãnh... để giám sát tiến độ của L/C cũng như tính toán, rà soát, lập phương án để tiến hành các bước tiếp theo trong quá trình TTQT như tiến độ giao hàng, tình trạng của chứng từ, các tin có liên quan từ ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chuyển nhượng...


2. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế:


Như chúng ta đã biết, hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, kéo theo nhu cầu cần tài trợ của doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng ngày càng đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu đó, VCB cần phải nghiên cứu các sản phẩm mới mà các ngân hàng nước ngoài áp dụng, và ứng dụng nó trong điều kiện Việt Nam một cách phù hợp. Chính nhờ những sản phẩm mới này sẽ là công cụ để tăng thêm uy thế, uy tín của ngân hàng VCB trong thị trường ngân hàng cạnh tranh khắc nghiệt như hiện nay.


Điển hình, đối với hoạt động bao thanh toán, ở Việt Nam chỉ mới có một số ít ngân hàng cung cấp như VCB, ACB, ANZ. Các khách hàng ở Việt Nam vẫn chưa quen với dịch vụ này. VCB cần phải tận dụng lợi thế về đội ngũ chuyên viên am hiểu nghiệp vụ của mình, tư vấn hỗ trợ cho khách hàng, khuyến khích họ sử dụng dịch vụ. VCB cần phải phát huy hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng đối với các dự án sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.


Ngoài ra, cần xem xét lại quy trình xây dựng, thiết kế và đưa vào ứng dụng các sản phẩm mới cho tài trợ thương mại quốc tế, trong đó phần rõ trách nhiệm các phòng/ban liên quan như Quan hệ khách hàng, Quan hệ ngân hàng đại lý, Quản lý các đề án công nghệ, Trung tâm tin học,… cũng như giữa Hội sở chính và các chi nhánh nhằm đảm bảo xây dựng sản phẩm theo đúng yêu cầu của khách hàng cả về mặt nghiệp vụ và thời gian.


3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế:‌


Để phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, ngân hàng không thể không đẩy mạnh thêm việc mở rộng mạng lưới và quan hệ hợp tác quốc tế. Đây là điều rất quan trọng, quan hệ hợp tác quốc tế là hạn chế cũng kéo theo hạn chế tầm hoạt động của tài trợ thương mại quốc tế. Đăc biệt VCB cần quan tâm hơn đến việc thiết lập quan hệ ngân hàng ở khu vực châu Phi và Nam Mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa dịch vụ của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế của VCB. Bên cạnh đó, từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng kể cả thanh toán quốc tế trực tiếp tại một số vùng biên giới có tiềm năng về biên mậu cũng như tại một số trung tâm ngân hàng tài chính quốc tế lớn như Hongkong, Singapore, Mỹ.


4. Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động kinh doanh nhằm thúc đẩy hiện đại hoá ngân hàng:


Thời gian qua, VCB đã cố gắng nâng cấp hệ thống trang thiết bị, công nghệ,...để ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Hệ thống mạng hiện nay đã được nâng cấp giúp cải tiến nghiệp vụ và giúp xây dựng các chương trình ứng dụng trong môi trường công nghệ mới với các tính năng đa dạng, tiện lợi khi giao dịch với khách hàng, đồng thời phát triển nhanh tốc độ xử lý nghiệp vụ tài chính và thương mại điện tử. Tuy nhiên, để chủ động hội nhập, VCB cần phải tiếp tục nâng cấp hệ thống tin học. Đây là tiền đề quan trọng để tiếp tục triển khai một loạt các ứng dụng công nghệ tiên tiến như ngân hàng điện tử, mở rộng hệ thống rút tiền tự động (ATM), tăng cường hệ thống thông tin quản lý, ứng dụng các chuẩn mực của hệ thống kế toán quốc tế (IAS). Ngoài ra, đầu tư phát triển công nghệ hiện đại cũng là điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại vì đây là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh cạnh tranh. Đảm bảo an toàn và hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ.

5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng thông qua chiến lược con người trong mô hình ngân hàng hiện đại:


Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã khẳng định con người luôn là nhân tố quyết định mọi thành công. Chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường nên đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, có kiến thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ. Đây là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cùng với đầu tư về cơ sở vật chất, ứng dụng về công nghệ thông tin thì VCB cũng cần chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực. Cần tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng:


Thường xuyên thực hiện công tác đào tạo lại nghiệp vụ cho nhân viên, tiến tới 100% cán bộ ngân hàng đều được đào tạo và nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức pháp luật, thông lệ quốc tế và ngoại ngữ... Tạo điều kiện giúp cán bộ, nhân viên ngân hàng có đủ trình độ nghiệp vụ phù hợp với các cương vị đảm nhiệm. Đối với lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của VCB hiện còn nhiều cán bộ, phòng giao dịch chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, chẳng hạn xử lý chưa thuần thục kỹ thuật nghiệp vụ, thực hiện chưa đúng theo các thông lệ quốc tế, lúng túng khi xử lý các tình huốn khó phát sinh trong quá trình thanh toán. Do vậy, muốn hiểu rõ và áp dụng các thể lệ, chế độ đã ban hành thì đòi hỏi mỗi người cán bộ cần phải nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ. Hơn nữa, nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển nên kiến thức cần phải được cập nhật kịp thời và toàn diện. Đối với các doanh nghiệp, chất lượng dịch vụ quan trọng hơn cả giá cả dịch vụ vì nhu cầu chính của họ là thanh toán được tiền. Việc làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ cho cấn bộ có tác dụng tích cực: Nâng cao uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng, thu hút khách hàng thêm nhiều khách hàng mới. Do vậy, VCB cần phải thực hiện tốt công tác đào tạo nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cho cán bộ ngân hàng có liên quan đến hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Chính vì vậy việc cần thực hiện đó là:


Cử cán bộ đi học tại các ngân hàng có kinh nghiệm (có thể ở nước ngoài) về nghiệp vụ thanh toán quốc tế nâng cao, học tập kinh nghiệm, từ đó hình thành một đội ngũ giảng

viên kiêm nghiệm của VCB đào tạo lại cho các cán bộ khác trong nội bộ hệ thống VCB. Hàng năm, tổ chức các hội nghị chuyên đề và tập huấn nghiệp vụ thanh toán quốc tế để cập nhật nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm.


Bên cạnh việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ tài trợ thương mại thì cũng phải bồi dưỡng cả phẩm chất đạo đức. Đội ngũ cán bộ phải là những người nhiệt tình, năng nổ có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có thái độ và phong cách giao tiếp văn minh lịch sự.


Đối với công tác nhân sự, VCB cần thực hiện tốt chế độ thi tuyển theo những tiêu chí có chất lượng để tuyển được các cán bộ mới thực sự có năng lực. Việc tuyển chọn cán bộ trẻ kế thừa có ý nghĩa quyết định tương lai phát triển của ngân hàng. Công tác quy hoạch cán bộ phải luôn tính đến yếu tố trình độ năng lực chuyên môn, năng lực điều hành và gắn liền với chiến lược kinh doanh của ngân hàng.


Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động tài trợ thương mại, VCB cần có chiến lược phát triển con người, lựa chọn đội ngũ cán bộ trẻ có chuyên môn cao, có trình độ ngoại ngữ và vi tính tốt, am hiểu về lĩnh vực ngoại thương bố trí làm nghiệp vụ đối ngoại.


Đào tạo người đã khó, giữ được người càng khó hơn, đối với hiện tượng ” chảy máu chất xám”, ban lãnh đạo VCB cần xem xét đưa ra phương án cụ thể để khắc phục. Hướng đến nhân viên, tìm hiểu những băn khoăn, khó khăn của nhân viên, đáp ứng giải quyết, và đưa ra các chế độ đãi ngộ tốt để họ có thể an tâm làm việc hết trách nhiệm và gắn bó với ngân hàng.


6. Thực hiện tài trợ thương mại quốc tế trọn gói thông qua việc tăng cường hiệu quả của phòng tài trợ thương mại:


Sự ra đời của Phòng tài trợ thương mại là tất yếu và cần thiết như đã phân tích. Nhưng từ khi ra đời Phòng tài trợ thương mại chưa phát huy hết được vai trò của mình. Để tăng cường hiệu quả của hoạt động này, bắt đầu từ cán bộ của Phòng cũng cần được nâng

cao khả năng, trình độ…Để thực hiện hỗ trợ, giúp đỡ và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong suốt quá trình thực hiện thương vụ, các cán bộ được lựa chọn vào phòng tài trợ thương mại phải là những cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động và có ý thức không ngừng học hỏi để hoàn thiện mình. Công tác tài trợ yêu cầu cán bộ phải có hiểu biết trên nhiều lĩnh vực nghiệp vụ vì vậy VCB có thể thực hiện việc luân chuyển vị trí công tác của các cán bộ trong phòng tài trợ thương mại theo năm. Chẳng hạn một cán bộ năm trước có thể công tác ở vị trí chuyên về thanh toán nhập thì năm nay chuyển sang công tác ở vị trí chuyên thanh toán xuất dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của người đã đảm nhận vị trí đó năm trước. Cứ như vậy, cùng với sự thay đổi vị trí công tác và tinh thần giúp đỡ, học hỏi lẫn nhau các cán bộ trong phòng sẽ ngày càng hoàn thiện kỹ năng của mình trên nhiều lĩnh vực tiến tới việc để thực hiện tài trợ cho 1 thương vụ chỉ cần một người thực hiện tất cả các nghiệp vụ thay vì nhiều người mỗi người thực hiện một nghiệp vụ.


Về mô hình hoạt động tài trợ thương mại, mô hình phân cấp Chi nhánh hoạt động đầu đủ và Chi nhánh hoạt động không đầy đủ chưa phải là một mô hình hoàn thiện mà chỉ là bước đi đầu tiên trên con đường tập trung hóa, chuyên môn hóa hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại ngân hàng Ngoại thương. Có thể chia quá trình đó thành 3 giai đoạn chính như sau:

Giai đoạn I (2006-2007): Phân loại và hoàn thiện quy trình tác nghiệp, quy trình luân chuyển chứng từ giữa các Chi nhánh hoạt động đầy đủ và chi nhánh hoạt động không đầy đủ.

Giai đoạn II ( 2007-2009 ): Sắp xếp lại hoạt động thanh toán quốc tế theo hướng đẩy mạnh tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các sản phẩm tài trợ mới, tiếp tục tập trung hóa xử lý các giao dịch tài trợ thương mại tại các Chi nhánh có chất lượng xử lý cao.

Giai đoạn III ( 2009-2010): ứng dụng mô hình các phòng Dịch vụ tài trợ thương mại tại các Chi nhánh chịu trách nhiệm tiếp thị, quảng bá, cung ứng các sản phẩm tài trợ thương mại bên cạnh các Trung tâm miền chịu trách nhiệm xử lý các giao dịch tài trợ thương mại. Tối đa có thể là 2 hoặc 3 Trung tâm miền trên toàn lãnh thổ.

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 06/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí