Các bước đi này phù hợp với thực tế phát triển của các trung tâm thương mại, công nghiệp tại Việt Nam, phù hợp với xu hướng tập trung hóa của các ngân hàng hiện đại trên thế giới và phù hợp với tính tất yếu ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ ngân hàng tại ngân hàng Ngoại thương. Để mô hình này đi vào hiện thực, trong các năm tới cần: tăng cường công tác kiểm tra giám sát số lượng, chất lượng xử lý để các Chi nhánh không trực tiếp xử lý vẫn có thể đứng danh trong giao dịch.
Cùng với việc tổ chức lại mô hình hoạt động thành công, khi hiệu quả và uy tín của phòng tài trợ đã được khẳng định và các cán bộ đã tích luỹ được những kinh nghiệm cần thiết, hoạt động của phòng tài trợ thương mại sẽ không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp 90- 91 nữa mà VCB có thể mở rộng phạm vi phục vụ của Phòng đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có nhiều nhu cầu tài trợ.
7. Tăng cường áp dụng các biện pháp Marketting vào hoạt động ngân hàng. Xây dựng chiến lược khách hàng từ tổng thể đến chi tiết:
VCB cũng là một đơn vị kinh doanh và mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận, nên việc khuyếch trương thanh thế, uy tín, chất lượng hoạt động của mình nhằm thu hút khách hàng là một biện pháp quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công. Vì vậy trong mỗi nghiệp vụ cần tăng cường hoạt động marketting, nhất là trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, đặc biệt là với các ngân hàng nước ngoài đã có nhiều kinh nghiệm, có tiềm lực tài chính sẽ vào kinh doanh ở Việt Nam theo Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã được ký kết và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Thực hiện Marketing nhằm tối đa hoá hiệu quả các hoạt động kinh doanh, hoạch định và kiểm soát vị thế của VCB trên thị trường. Đặc biệt, khi các ngân hàng nước ngoài được phép vào Việt Nam, thì Marketing sẽ giúp VCB tìm được những thời cơ thách thức, nghiên cứu nội lực để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh này. Chẳng hạn, điểm yếu của các ngân hàng trong nước là vốn nhỏ, tiềm lực tài chính thấp, thủ tục rườm rà... khiến cho nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn không hài lòng. Tuy nhiên lại có những điểm mạnh như: mạng lưới rộng, chi phí dịch vụ thấp, hiểu rõ về khách hàng trong nước, các dịch vụ phù hợp với hoạt động của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ,... Hiểu được như vậy có thể chủ động đưa ra những biện pháp để thu hút khách hàng, các dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng... từ đó có thể hoà nhập tốt hơn, để hoạt động có hiệu quả hơn.
Tới đây, trước các xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá và tin học hoá, VCB chắc chắn sẽ phải đối mặt với các lực lượng cạnh tranh đông đảo hơn, mạnh hơn và dày dặn kinh nghiệm hơn. Chính vì vậy, để có thể đứng vững và đi lên cần phải phát triển hoạt động marketting với đúng tầm và vị trí quan trọng của nó.
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Tài Trợ Thương Mại Quốc Tế:
- Định Hướng Cho Hoạt Động Tài Trợ Thương Mại Quốc Tế Của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam:
- Tiết Kiệm Chi Phí Hoạt Động Kinh Doanh Để Từ Đó Giảm Lãi Suất Cho Vay:
- Tìm hiểu hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Mặt khác, như chúng ta đã biết, đối với mọi hoạt động kinh doanh thì yếu tố khách hàng là cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong cơ chế thị trường “khách hàng là thượng đế”. VCB tuy là một đơn vị hoạt động lâu năm và có nhiều kinh nghiệm, uy tín trong hoạt động thanh toán quốc tế nhưng trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt như hiện nay thì để hoàn thiện và phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế ngân hàng cần lưu ý một số vấn đề sau:
7.1. Công tác tiếp thị khách hàng.
Là một ngân hàng thương mại Nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực ngoại thương, khách hàng số một của VCB là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK. Giải pháp quan trọng nhất để giữ chân những người bạn chung thuỷ lâu đời là phải xác định được mức dịch vụ phí là lãi suất đầu ra thật hợp lý, mang lại lợi ích cho cả hai bên. Cải cách hành chính trong ngân hàng, giảm bớt các thủ tục phiền hà cũng là một hình thức giảm chi phí trong huy động và sử dụng vốn cho khách hàng. Cần kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm đối với các hiện tượng sách nhiễu, vòi vĩnh, thông đồng tham ô của cán bộ ngân hàng.
Có chính sách khách hàng phù hợp, ưu đãi với khách hàng truyền thống như: Thiết lập một biểu phí dịch vụ ưu đãi nhằm thu hút khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh. Xác định mức ký quỹ một cách phù hợp.
Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh với khách hàng: Phong cách giao tiếp chính là nghệ thuật lôi kéo và giữ khách có hiệu quả nhất. Nhân viên ngân hàng phải luôn là người niềm nở, nhiệt tình giải quyết công việc một cách nhanh chóng chính xác, luôn sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng làm thủ tục cần thiết, không gây khó khăn cho khách hàng, sẵn sàng tư vấn giúp khách hàng ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với phương thức thanh toán an toàn nhất và có lợi nhất. Ngoài ra, để nâng cao văn hoá kinh doanh của mình, VCB cần có chiến lược phục vụ khách hàng theo phương châm “cung ứng dịch vụ với nụ cười thân thiện” theo tiêu chí 3S dưới đây, bởi vì chỉ cần một nụ cười thân thiện hay một cử chỉ đúng mực của nhân viên cũng đủ để gây ấn tượng tốt đầu tiên đối với khách hàng. Tiêu chí 3S là: Thứ nhất, Smile: luôn luôn thể hiện sự niềm nở, nhiệt tình đối với khách hàng.Thứ hai: Secret: luôn luôn bí mật không tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng như số dư tiền gửi, tiền vay, tình hình tài chính nếưnh chưa thật sự cần thiết.Thứ ba, Sincerity: luôn phục vụ khách hàng một cách chân thành, nhiệt tình.
7.2. Phân loại khách hàng:
Để thực hiện chính sách khách hàng được chính xác, thì VCB phải thực hiện công tác phân loại khách hàng theo định kỳ. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và mối quan hệ với các ngân hàng thương mại. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để xếp loại và có giải pháp xử lý. Ngân hàng Ngoại thương đã có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chung việc phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất là việc thực hiện đối với từng đối tượng khách hàng sao cho phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, đối với khách hàng đang bị thua lỗ vì những nguyên nhân khách quan, nếu không cho vay tiếp thì dẫn khách hàng đến bờ vực phá sản mà cuối cùng nguồn vốn ngân hàng cũng bị thất thoát, nhưng cũng cần phải cảnh giác đối với những khách hàng mới giao dịch hoặc từ ngân hàng khác chuyển qua, không vì mục tiêu cạnh tranh mà bỏ qua hoặc coi nhẹ các nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ.
7.3. Quảng cáo và hội nghị khách hàng
Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo: Với cơ chế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn diễn ra gay gắt, do vậy VCB cũng cần đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo, để tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của khách hàng và tiếp xúc với khách hàng để nắm bắt ý kién phản hồi.
Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, hội nghị chuyên đề nhằm giúp khách hàng có những hiểu biết cơ bản trong thanh toán quốc tế... Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả khách hàng và ngân hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có đủ điều kiện tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tâm, đồng thời tạo được không khí cởi mở với mối quan tâm chung, cũng thông qua khách hàng mà đánh giá rút kinh nghiệm về năng lực phẩm chất cán bộ ngân hàng. Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của ngân hàng nước ngoài là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các doanh nghiệp với nhiều nội dung phong phú như: trao đổi kinh nghiệm, thông tin, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và các biện pháp quản lý rủi ro....
7.4. Tư vấn tiếp thị và hợp tác kinh doanh với khách hàng:
Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tư vấn của khách hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Xác định tư cách và khả năng của đối tác nước ngoài tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng cho hàng hoá xuất khẩu... Trong các nước tư bản, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá.
8. Tăng cường củng cố bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ và hệ thống thanh tra ngân hàng:
Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh không những được ngân hàng quan tâm, mà còn là mối quan tam của người gửi tiền, của các cơ quan quản lý Nhà nước, của toàn xã hội, vì sự phá sản của một ngân hàng có thể gây nên đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống tài chính – ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Theo kinh nghiệm từ nhiều vụ phá sản của các ngân hàng trên thế giới, thì để ngăn ngừa những tổn thất và rủi ro có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh, ngoài các biện pháp thanh tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước, trước hết bản thân các NH phải có những biện pháp hữu hiệu, quan trọng nhất là phải thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ một cách đầy đủ và có hiệu quả. Vì thế VCB cần phải chú ý đến các vấn đề:
- Xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chuẩn mực về đạo đức, tính tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát nội bộ, khen thưởng đối với những cán bộ kiểm toán nội bộ làm tốt, tổ chức cơ cấu hoạt động kiểm soát một cách khoa học, phân công phân nhiệm cho các đơn vị, bộ phận, cán bộ một cách rõ ràng.
- Phân tích từng lĩnh vực kinh doanh để nhận biết và đánh giá rủi ro một cách đầy đủ, đặc biệt khi hoạt động ở lĩnh vực mới, kinh doanh một loại sản phẩm mới,...Từ đó, xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn với quy trình nghiệp vụ đầy đủ, hiệu quả.
- Phối hợp hiệu qủa giữa các cơ quan giám sát ngân hàng với kiểm toán nội bộ. Kiểm soát nội bộ là vô cùng quan trọng, nhưng một điều không thể thiếu là việc kiểm tra, thanh tra từ ngân hàng Nhà nước, từ Chính phủ...
Về hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của VCB hiện nay còn không ít những bất cập. Để thực hiện được nội dung của các mục tiêu đã đề ra thì VCB cần giải quyết theo các hướng sau:
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa, chỉnh sửa chế độ thông tin, báo cáo qua mạng truyền dẫn, nâng cao kỹ năng phân tích, đánh giá tình hình nhằm phát hiện sớm và đề xuất các giải pháp phù hợp.
Thứ hai: Tiếp tục và tăng cường quan hệ phối hợp với các cấp, các ngành, các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đồng thời,
phối hợp có hiệu quả với các cơ quan liên quan, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, ngăn chặn, chấn chỉnh và xử lý các sai phạm.
Thứ ba: Triển khai đào tạo và đào tạo lại cán bộ thanh tra và kiểm soát viên, triển khai các dự án song phương về thanh tra ngân hàng do các tổ chức tài chính quốc tế giúp đỡ, xây dựng và biên soạn tài liệu, xây dựng cẩm nang thanh tra để có hành trang mới cho hoạt động thanh tra ngân hàng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ :
1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành:
1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Trong thời gian tới khi mở cửa thị trường tài chính-ngân hàng theo đúng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các chi nhánh ngân hàng nước ngoài với nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới mà ở Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải sớm ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các nghiệp vụ mới nhằm làm cơ sở hoạt động cho hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải đảm bảo sự ổn định, nhất quán của hệ thống các quy phạm pháp luật như luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật thuế… tránh những thay đổi không dự báo trước làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và đến các ngân hàng thương mại nói riêng.
Trước hết cần phải luật hoá các yêu cầu quản lý đảm bảo tính thống nhất trong thể chế quản lý và chế tài. Cần có nghị định của Chính phủ quy định kiểm toán các doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ xin bảo lãnh, tài trợ, vay ngân hàng để có đủ cơ sở chính xác về mặt kế toán và tài chính cho việc thẩm định của các tổ chức tài chính tín dụng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng cần được hoàn thiện cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các doanh nghiệp nói chung hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các điều kiện để được vay tín chấp của ngân hàng. Ngoài ra, còn tồn tại các vấn đề về việc đưa các văn bản pháp luật vào thực tiễn sản xuất bằng triển khai đồng bộ
giữa các cơ quan pháp luật Nhà nước từ Hải quan, Biên phòng, Thuế vụ đến Công an,Viện kiểm soát và Toà án. Đơn cử trường hợp quyết định số 44 của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 21/03/2002 về việc sử dụng chứng từ điện tử, chữ ký điện tử làm chứng từ thanh toán đã phần nào mở ra hướng phát triển mới cho ngành tài chính ngân hàng nói riêng và quá trình thực hiện thương mại điện tử ở Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, thực thi được điều đó cũng còn cần phải có sự ra đời của nhiều văn bản, thông tư hướng dẫn triển khai cho từng vấn đề cụ thể, không chỉ đối với trong thanh toán ngân hàng mà còn cả trong dân cư và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
1.2. Hoàn thiện chính sách quản lý của Nhà nước:
Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước cần đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp hữu hiệu chống lại các hiện tượng gian lận thương mại và các hoạt động kinh doanh phi pháp như lừa đảo, làm hàng nhái, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế… Chẩng hạn, hiện nay hoạt động xuất nhập khẩu qua đường tiểu ngạch còn trong tình trạng buông lỏng quản lý và thiếu các chính sách quản lý hiệu quả, hầu hết quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu đều sử dụng tiền mặt mà không thông qua hệ thống ngân hàng, điều này vừa làm giảm khả năng quản lý của nhà nước, đặc biệt là vấn đề quản lý thu thuế, vừa làm giảm vai trò của các ngân hàng trong việc phát triển thương mại quốc tế và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước:
2.1. Hoàn thiện chế độ quy định về hoạt động kinh doanh, đầu tư vay vốn.
Theo quy định hiện nay, các doanh nghiệp nếu thoả mãn các điều kiện vay vốn thì được quyền vay vốn ở nhiều ngân hàng. Quy định này đem lại rất nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp, có thể vay vốn ở nhiều nơi nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Nhưng chính điểm mở này cũng cho thấy hệ thống pháp luật về hoạt động kinh doanh và đầu tư vay vốn còn nhiều bất cập. Trong đó có tình trạng các ngân hàng cạnh tranh với nhau, lôi kéo khách hàng nên đã tạo điều kiện cho các khách hàng vay ở nhiều nơi, thực hiện đảo nợ, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong quản lý vốn vay của các ngân hàng. Do
vậy, rất cần ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm tra kiểm soát, yêu cầu các ngân hàng phải chấp hành đúng các quy định, đồng thời ngân hàng Nhà nước phải làm đầu mối để các ngân hàng cùng phối hợp chặt chẽ trong quá trình cho vay, kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
Từ thực tế trên, để nâng cao hiệu quả của việc quản lý vốn tín dụng các doanh nghiệp, ngân hàng Nhà nước nên thực thi quản lý và định hướng các ngân hàng thương mại theo các nội dung sau.
- Các ngân hàng cần tạo lập mối quan hệ trong kinh doanh với nhau trên mọi phương diện để thu thập các thông tin chung về khách hàng.
- Đối với các dự án kinh tế lớn, các ngân hàng thương mại nên phối hợp thực hiện cho vay đồng tài trợ để phân tán rủi ro và quản lý vốn vay được chặt chẽ hơn.
- Tăng cường các biện pháp quản lý kinh doanh đối với các doanh nghiệp theo đúng chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với năng lực và trình độ quản lý, yêu cầu thực hiện kiểm toán hàng năm.
- Thực hiện cho vay có tài sản đảm bảo với doanh nghiệp nhà nước để xác định tài sản đảm bảo vốn vay cụ thể cho mỗi ngân hàng.
2.2. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá.
Để triển khai và tiến hành cơ chế điều hành tỷ giá, một vấn đề có tính then chốt là phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – một kênh quan trọng để ngân hàng Nhà nước điều tiết can thiệp mua bán ngoại tệ nhằm cân đối cung cầu và thực hiện chính sách tỷ giá theo đúng định hướng của Nhà nước. Hoạt động liên ngân hàng cần thực hiện thông suốt liên tục để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, giải quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đồng thời có cơ chế xúc tiến các giải pháp nhằm tăng quyền tự chủ trong cân đối ngoại tệ, tháo gỡ các bất hợp lý gây ách tắc, giảm thiểu các thiệt hại đôi khi là đáng kể do tỷ giá mang lại trong hoạt động kinh tế đối ngoại của các doanh nghiệp.