Các Bên Trong Giao Dịch Thương Mại Có Yếu Tố Nước Ngoài Được Thoả Thuận Áp Dụng Pháp Luật Nước Ngoài, Tập Quán Thương Mại Quốc Tế Nếu Pháp Luật

theo điều kiện kinh tế và từng trường hợp cụ thể, người nhập khẩu và người xuất khẩu có thể lựa chọn cho mình một bản UCP bất kỳ để áp dụng nhưng phải có sự dẫn chiếu cụ thể bản UCP đó trong nội dung thư tín dụng.

Khi áp dụng UCP thì đồng nghĩa với việc áp dụng ISBP và eUCP (Bản phụ trương của UCP về việc xuất trình chứng từ điện tử - the UCP Supplement for Electronic Presentation).

1.2.3.2 Giá trị pháp lý

Phòng TMQT là một tổ chức xã hội phi chính phủ do vậy các tập quán quốc tế như UCP 600, ISBP, e UCP 600… không phải là luật quốc tế nên chỉ mang tính chất pháp lý tùy ý và đồng thuận, không có tính chất bắt buộc. Các bên khi sử dụng thì phải dẫn chiếu áp dụng tập quán đó. Ngoài ra các bên có quyền lựa chọn những quy tắc nào phù hợp với yêu cầu của mình để áp dụng, những quy tắc nào chưa hợp thì có quyền sửa đổi, bổ sung, thậm chí có quyền không áp dụng một hoặc một số quy tắc nào đó, tuy nhiên phải có sự đồng thuận của các bên có liên quan.

Theo bậc thang pháp lý thì có thể xếp đầu tiên là Công ước quốc tế, Luật quốc gia, Pháp lệnh quốc gia, Nghị định chính phủ, Thông tư bộ và liên bộ, Quy chế, Hợp đồng dân sự…và tập quán trong đó có UCP 600.

Chính vì tính chất pháp lý tùy ý mà bản thân UCP và ISBP đã tạo ra những điều kiện miễn trạc cho nhà soạn thảo các văn bản pháp lý đó khi có những sai sót phát sinh trong quá trình áp dụng.

1.2.4 Mối quan hệ của UCP và luật quốc gia

Trường hợp xảy ra xung đột giữa luật quốc gia và UCP 600 thì việc lựa chon UCP hay luật quốc gia là tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia.

Ví dụ như tại Mỹ, điều 5 Bộ luật Thương mại thống nhất, sửa đổi năm 1995 (Uniform Commercial Code 1995 Revisison - UCC) điều chỉnh thư tín dụng tại hầu hết các bang, nhưng luật pháp Mỹ cũng quy định khi thư tín dụng dẫn chiếu tới UCP thì UCP sẽ thay thế Điều 5 UCC điều chỉnh thư tín dụng đó.

Ngược lại ở một số nước khác, khi xung đột pháp luật xảy ra, luật quốc gia sẽ chiếm ưu thế và phải được tuân thủ. Điển hình là Trung Quốc, pháp luật cho phép tòa án địa phương có thể ra lệnh tạm ngưng thanh toán L/C khi người mở L/C có khiếu nại nhằm chống gian lận trong giao dịch tín dụng chứng từ.

Tại Việt Nam, cũng như nhiều nước khác chưa có luật riêng trực tiếp điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ nên đối với các trường hợp không có luật quốc gia điều chỉnh, pháp luật Việt Nam cho phép các bên tham gia được áp dụng tập quán quốc tế, kể cả luật nước ngoài.

Quy định này thể hiện đầu tiên ở Khoản 4 Ðiều 759 Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005: “Áp dụng pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế… Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 cũng có quy định tại Điều 5 “Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế

1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

2. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật

nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

Ngoài ra Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 cũng có điều khoản cho phép áp dụng điều ước và tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng: “ Các bên tham gia hoạt động ngân hàng có thể thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Nghị định 131/2005/NĐ-CP về quản lý ngoại hối Điều 3 (2) quy định: “Trong trường hợp pháp luật Việt Nam không cấm, các bên tham gia hoạt động ngoại hối với nước ngoài có thể thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài, nếu không gây hậu quả làm thiệt hại đến lợi ích của Việt Nam”…‌

Các quy định trên đều tập trung vào 1 điểm là chỉ áp dụng tập quán quốc tế với điều kiện nó không trái với pháp luật Việt Nam nghĩa là trong trường hợp luật Việt Nam có sự khác biệt thậm chí đối lập với UCP thì luật Việt Nam sẽ chiếm ưu thế và phải được tuân thủ. Thực tế tại các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đều thống nhất sử dụng UCP 600 như một văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Như vậy khi lựa chọn áp dụng UCP 600, các bên tham gia phải chú ý tới mối quan hệ của UCP và luật quốc gia cùng tham gia điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ.

1.3 Ảnh hưởng của UCP 600 và ISBP 681 ICC tới hoạt độngTTQT bằng L/C

1.3.1 Ảnh hưởng đến thương mại quốc tế nói chung


- Ngăn ngừa nguy cơ giảm sút vai trò của tín dụng chứng từ trong thương mại quốc thế khi có nhiều ngân hàng coi đây là một công cụ thu phí sai biệt và từ chối thanh toán. Nhờ các quy đinh rõ ràng, tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ linh

hoạt hơn, UCP 600 cùng với ISBP 681 đã làm giảm thiểu lượng chứng từ có sai biệt.

- UCP 600 đã tăng cường sử dụng các quy tắc, tập quán quốc tế khác nhau như ICC như UR 525, ISP 98, thông quan đó những vấn đề mà UCP chưa bao quát được sẽ được giải quyết cụ thể trong các tập quán trên.

- UCP 600 đưa ra nhũng quy định cụ thể liên quan đến L/C chuyển nhượng, phù hợp với hoạt động thương mại ba bên đang ngày càng phát triển tại các nước Châu Á

- UCP 600 có những thay đổi phù hợp với thực tiễn của ngành vận tải và bảo hiểm, không những được những người hoạt động trong lĩnh vực này hoan nghênh mà còn tạo điều kiện cho việc xuất trình bộ chứng từ của nhà xuất khẩu, việc tạo lập và kiể tra bộ chứng từ thanh toán của các ngân hàng.

- UCP 600 và ISBP 681 cũng đã đưa ra tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ chặt chẽ nhằm chống lại hành động giả mạo bộ chứng từ thanh toán.

1.3.2 Ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại

- UCP 600 có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 đòi hỏi các ngân hàng phải có bước chuẩn bị trước đó để có thể tự tin áp dụng UCP 600 trong giao dịch L/C thường ngày của mình, trong đó, hoạt đôngh đào tạo đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy hầu hết các ngân hàng đều có mở nhứng lới đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cập nhật UCP 600 và ISBP 681. Cho đến nay hầu hết các ngân hàng của Việt Nam đều đã áp dụng phiên bản mới của ICC trong hoạt động thanh toán của mình.

- Theo quy định của UCP 600, ngân hàng chỉ có 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra bộ chứng từ thanh toán thay vì quy định 7 ngày là việc trong UCP

500. Điều này cũng tạo ra thách thức cho các ngân hàng, đặc biệt trong trường hợp bất thường (ví dụ như các tình huống nảy sinh liên quan đến bộ chứng từ bất thường, có sai sót…) Trong những tình huống đó, ngân hàng sẽ chịu áp

lực về thời gian để đưa ra các quyết đinh của mình. Đồng thời để phù hợp với nhũng quy định nói trên của UCP 600, ngân hàng cũng phải thay đổi một số bước trong quy định thanh toán của mình.

- ISBP 681 ra đời thay thế cho ISBP 645 thực sự cũng tạo ra những thay đổi cơ bản trong quy trình nghiệp vụ thanh toán tại các ngân hàng thương mại. Vì ISPB 681 có một số thay đổi so với ISBP 645 như nên để áp dụng được thành công UCP 600 và ISBP 681 đòi hỏi các ngân hàng cần phải thay đổi, bổ sung, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ của mình cho phù hợp với quy tắc và thông lệ quốc tế.

- Trách nhiệm của các ngân hàng theo UCP 600 được nâng cao,đặc biệt UCP 600 đặt ra yêu cầu cao hơn với ngân hàng thông báo. Theo UCP 600 ngân hàng thông báo không chi có trách nhiệm xác minh tính chân thức của thư tín dụng, mà phải phản ánh đúng thư tín dụng mà ngân hàng này đã nhận được (Điều 9b UCP 600)

- Với những quy định mới về thương lượng bộ chứng chỉ từ trả sau hoặc chấp nhận, các ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận phải chụ rủi ro trong trường hợp bộ chứng từ đã được ngân hàng chỉ thị thương lượng thanh toán được các đinh là giả mạo. Điều này đòi hòi các ngân hàng cần phải có những biện pháp quản lý rủi ro nhằm bảo vệ chính mình.

1.3.3 Ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

Đối với doanh nghiệp xuất khẩu:

- UCP 600 và ISBP 681 giảm thiểu số lượng chứng từ của các nhà xuất khầu bị từ chối thanh toán nhờ: thứ nhất UCP 600 đặt ra những tiêu chuấn kiểm tra chứng tù rõ ràng tạo cơ sở cho việc tạo lập chứng từ, bên cạnh đó ISBP 681 cũng có những quy đinh rõ ràng về chứng từ được lập tuân thủ UCP 600 và ISBP 681 tù đó giảm thiểu được những sai sót của bộ chứng từ khi lập theo

UCP 500 và ISBP 645. Thứ hai, các ngân hàng cũng kiểm tra chứng từ linh hoạt hơn như quy định về địa chỉ của người hưởng lợi và người yêu cầu, dữ liệu trong chứng từ không cần phải giống hệt như khi đọc lời văn trong tín dụng…

- ISBP 681 có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều so với ISBP 645 về chứng từ xuất trình dó đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đòi tiền dễ dàng hơn (bộ chứng từ bị từ chối ít hơn).

- Do UCP 600 cung cấp nhiều sự lựa chọn cho nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể được tài trợ đối với L/C trả chậm chứ không phải chỉ đối với L/C chiết khấu nên người xuất khẩu giảm thiểu được rủi ro từ phía nhà nhập khẩu (rủi ro liên quan đến môi trường kinh tế, chính trị, địa lý của nước nhà nhập khẩu).

- Nhà xuất khẩu nhanh chóng được thanh toán nếu bộ chứng từ xuất trình phù hợp do thời gian dành cho ngân hàng kiểm tra chứng từ rút xuống từ 7 ngày còn 5 ngày làm việc ngân hàng. Nhờ đó, mà dòng tiền của người của người xuất khẩu được cải thiện, cho phép người xuất khẩu trả tiền cho nhà cung cấp sớm hơn và đảm bảo về giá hàng, đồng thời cho phép thanh toán nhanh chóng tái sản xuất, mở rộng kinh doanh.

Đối với doanh nghiệp nhập khẩu:

- Nhà nhập khẩu cũng có thêm lựa chọn trong đơn đề nghị mở L/C khi muốn thay đổi, bổ sung hoặc xóa bỏ một điều khoản của UCP 600 nhằm phù hợp với đặc điểm giao dịch của mình. Điều này được quy định trong Điều 1 UCP 600 các quy tắc của UCP sẽ “ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng”.

- Nhà nhập khẩu cần phải tìm hiểu bạn hàng một cách kỹ càng do UCP 600 đặt ra yêu cầu cao hơn so với UCP 500 về phía nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành trong trường hợp chứng từ có giả mạo.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG UCP 600 VÀ ISBP 681 TẠI VIỆT NAM.‌‌

2.1 Khái quát chung về tình hình TTQT tại Việt Nam


2.1.1 Tình hình TTQT tại các ngân hàng thương mại Việt Nam


Hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta bao gồm ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Tính đến năm 2010 tại Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước (Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam); 39 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị (An Bình (An Binh Commercial Joint Stock Bank- ABB), Dầu khí Toàn Cầu (Global Petro Commercial Joint Stock Bank)…); 40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam (ANZ (Australia & New Zealand Banking Group) , Citybank (Mỹ)…); 5 ngân hàng Liên doanh (Indovina bank limited…); 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 17 công ty tài chính và 13 công ty tài chính.

Tại các ngân hàng thương mại Việt Nam thì hoạt động TTQT là một mảng hoạt động được tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước cung cấp nổi bật với 3 hình thức là L/C, chuyển tiền và nhờ thu. Năm 2009, đứng đầu thị phần thanh toán xuất nhập khẩu vẫn là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – VCB với doanh số xuất nhập khẩu 25,62 tỷ USD chiếm 20,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước trong đó doanh số xuất khẩu đạt 12,46 tỷ USD, doanh số nhập khẩu là 13,15 tỷ USD3. Đứng thứ 2 là Ngân hàng Công thương


3 Nguồn: Báo cáo thường niên của VCB năm 2009.

Việt Nam – Vietinbank với doanh số nhập khẩu là 7,6 tỷ USD, xuất khẩu là 4,5 tỷ USD tăng gần gấp đôi năm 2008 chỉ với 7,02 tỷ USD4.

Bảng 2: Doanh số và thị phần TTQT của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2005 – 2008 5


Năm

2005

2006

2007

2008

Doanh số TTQT của cả nước

(triệu USD)

71670

81500

97132

113858

Doanh số TTQT của VCB

(triệu USD)

20426

22820

26323

32126

Thị phần TTQT VCB (%)

28,5%

28%

27,1%

24%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

Áp dụng UCP 600 và ISBP 681 ICC tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp - 5


Từ các con số trên có thể nhận thấy doanh số nhập khẩu của các ngân hàng thường cao hơn doanh số xuất khẩu nhưng tổng kim ngạch vẫn tăng đều qua các năm, hứa hẹn sự tăng trưởng trong tương lai.

2.1.2 TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ

Thanh toán quốc tế vẫn luôn là thế mạnh của một số ngân hàng như Ngân hàng Ngoại thương, Công thương.. Trong đó, TTQT bằng phương thức tín dụng chứng từ luôn dẫn đầu về tỷ trọng và giá trị

Thanh toán hàng xuất

Khi mở cửa hội nhập với WTO, Nhà nước đã có nhiều thay đổi trong chủ trương chính sách nhằm mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển chính vì thế kéo theo sự phát triển của các phương thức thanh toán quốc tế.



4 Nguồn: Báo cáo thường niên của Vietinbank 2009, 2008.

5 Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh các NHTM Việt Nam từ năm 2005 đến 2008

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 29/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí