hoạt động du lịch của vùng Bắc Trung Bộ cho phù hợp và tương đồng hơn.
Thứ ba, nhiều tư liệu thực tiễn và tình hình hoạt động liên kết phát triển du lịch ở một số quốc gia và địa phương trong nước được tác giả luận án kế thừa và cơ cấu lại theo các tiêu thức cho phù hợp với đề tài.
Thứ tư, hầu như tất cả các công trình nghiên cứu đều đề cập tới quan điểm, phương hướng và hệ thống các giải pháp để thúc đẩy du lịch phát triển. Ở đây luận án chỉ kế thừa các giải pháp liên kết du lịch hoặc liên kết du lịch để phát triển và hoàn thiện hơn.
Cho đến nay, tác giả luận án chưa có tìm thấy một luận án nào viết về liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ. Do đó, nội dung cốt lõi trong đề cương được phê duyệt của luận án do tác giả tự nghiên cứu và triển khai. Đó là các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chứng minh tính khách quan của liên kết phát triển du lịch do yêu cầu phát triển nội tại của các địa phương, trong đó sản phẩm du lịch với tư cách là sản phẩm ra đời trên cơ sở tài nguyên của địa phương và liên kết với các dịa phương khác trong vùng để tăng giá trị gia tăng của ngành dịch vụ du lịch.
Thứ hai, phân tích thực trạng liên kết phát triển du lịch trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ với các nội dung cốt lõi: (1) Liên kết tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch; (2) Liên kết phát triển sản phẩm du lịch; (3) Liên kết đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; (4) Liên kết xây dựng đồng bộ hạ tầng du lịch, đặc biệt là hạ tầng giao thông; (5) Liên kết huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế chính sách đầu tư phát triển du lịch chung của vùng, rà soát quy hoạch phát triển du lịch phù hợp với thế mạnh của từng địa phương; (6) Liên kết hợp tác nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch.
Thứ ba đưa ra được những quan điểm cơ bản và hệ thống các giải pháp khả thi để tăng cường liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ và bảo đảm cho nó phát triển ổn định bền vững trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN DU LỊCH
cận
2.1 Du lịch, liên kết, liên kết phát triển du lịch – Một số khái niệm và cách tiếp
2.1.1. Du lịch, phát triển du lịch, phát triển du lịch bền vững
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ
ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân có cách hiểu khác nhau về du lịch.
Theo Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch (IUOTO), du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong một khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí và chữa bệnh.
Năm 1963, Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch (tổ chức tại Rome) cho rằng: “Du lịch và tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc” [64].
Năm 1980, Tổ chức Du lịch quốc tế (tại Hội nghị Manila) đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là việc lữ hành của mọi người bắt đầu từ mục đích không phải là di cư và một cách hòa bình, hoặc xuất phát từ mục đích thực hiện sự phát triển cá nhân về các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa tinh thần cùng với việc đẩy mạnh sự hiểu biết và hợp tác giữa mọi người” [141].
Năm 1991, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm” [19].
Ở Việt Nam, theo khoản 1 Điều 3 Luật Du lịch năm 2017, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác [55]
Từ những định nghĩa trên, theo tác giả, du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu, trải nghiệm và vui chơi, giải trí trong một khoảng thời gian nhất định; là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Du lịch là một ngành năng động và cạnh tranh, đòi hỏi khả năng thích ứng với nhu cầu và mong muốn của khách hàng vì sự hài lòng, an toàn và hưởng thụ của khách hàng là trọng tâm chính của kinh doanh du lịch. Mục tiêu phát triển của ngành du lịch là góp phần nâng cao về chất lượng và sự đa dạng của các sản phẩm và dịch vụ du lịch tại các điểm đến mục tiêu nhằm tăng số lượng khách du lịch, thu nhập ngoại tệ và việc làm.
Phát triển du lịch chủ yếu đề cập đến tình hình tăng trưởng chất lượng trong các ngành du lịch về sự phát triển, mạnh mẽ kế hoạch và chính sách và tiếp thị trên toàn thế giới. Hơn nữa, phát triển du lịch bao gồm cách tiếp cận điểm đến, cơ sở vật chất thích hợp như khách sạn, phương tiện giao thông, tiện nghi, để khách du lịch có sự hài lòng hoàn toàn ở điểm đến cụ thể. Chất lượng là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của công ty du lịch hoặc chìa khóa để cạnh tranh [162].
Từ đó có thể hiểu phát triển du lịch là một khái niệm chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với các mục đích hợp pháp khác.
Các tiêu chí về phát triển du lich cũng nằm chung trong các tiêu chí phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Theo đó, phát triển du lịch là quá trình các cơ quan nhà nước,đơn vị kinh doanh, các tổ chức cùng phối hợp để thúc đẩy du lịch phát triển, tạo việc làm, nâng cao mức sống của người dân địa phương nơi có du lịch. Việc phát triển du lịch cũng cần đảm bảo các nhân tố cho phát triển bao gồm: (i) khai thác hợp lý các tài nguyên du lịch trên cơ sở nghiên cứu, chọn lọc các tài nguyên du lịch hấn dẫn, xây dựng thành các sản phẩm du lịch đặc thù, các sản phẩm du lịch chính và các sản phẩm du lịch bổ trợ; khai thác các tài nguyên du lịch phù hợp với đặc thù của địa phương và của vùng; khai thác tài nguyên du lịch đi đôi với việc trùng tu, tôn tạo, bảo vệ các tài nguyên, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; (ii) đảm bảo đem lại lợi ích kinh tế cho các bên liên quan bao gồm cộng đồng dân cư, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Đồng thời, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ và bình đẳng giữa các địa phương tham gia vào chuỗi cung ứng các sản phẩm du lịch; (iii) bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội ở các khu/điểm/tuyến du lịch; khai thác các tài nguyên du lịch đi đôi với việc đầu tư cho các hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội ở các khu/điểm/tuyến du lịch.
Như vậy, theo tác giả, phát triển du lịch là một dạng phát triển kinh tế với tư cách là một ngành. Các chỉ số thể hiện kết quả của quá trình phát triển du lịch bao gồm: số lượng khách du lịch và thu nhập du lịch; số lượng lao động/số việc làm mà ngành du lịch tạo ra; số lượng các doanh nghiệp du lịch được thành lập; số lượng các khu/điểm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của khách trong một khoảng thời gian nhất định tại điểm đến cụ thể. Điểm đến đó có thể là khu vực, quốc gia, vùng, địa bàn, hoặc địa phương (tỉnh/thành phố).
Theo UNEP và UNWTO, du lịch bền vững là du lịch giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường thiên nhiên và cộng đồng địa phương, và có thể được thực hiện lâu dài nhưng không ảnh hưởng xấu đến nguồn sinh thái mà du lịch phụ thuộc vào. Du lịch bền vững là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất cả những đặc điểm văn hoá kèm theo, có thể là trong quá khứ và cả hiện tại) theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương [202]. Cần xem xét đầy đủ các tác động kinh tế, xã hội và môi trường hiện tại và tương lai nhằm giải quyết các nhu cầu của du khách, các ngành công nghiệp, môi trường và cộng đồng chủ nhà.
Theo UNWTO “phát triển du lịch bền vững đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch hiện nay và cộng đồng sở tại trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai” [193]. Phát triển du lịch bền vững cần được chấp nhận như là tất cả các loại của sự phát triển du lịch mà tạo nên một đóng góp đáng kể hay, ít nhất, không mâu thuẫn với việc duy trì các nguyên tắc phát triển trong một thời gian vô hạn định mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu và ham muốn của họ. Khái niệm phát triển du lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc bảo vệ môi trường mà còn tập trung vào việc duy trì những văn hóa của địa phương và đảm bảo việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm đối tượng tham gia.
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Du lịch Việt Nam năm 2017, phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai [55].
Từ những phân tích trên, theo tác giả, du lịch được coi là phát triển bền vững khi nền du lịch đó tốt cho đất nước ở thời điểm hiện tại và còn bền vững lâu dài mai sau.
2.1.2. Vùng, liên kết, liên kết phát triển du lịch
2.1.2.1. Khái niệm vùng trong phát triển du lịch
Vùng du lịch là một cộng đồng lãnh thổ của các xí nghiệp chuyên môn hóa phục vụ khách du lịch, có quan hệ mật thiết về kinh tế nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách trên cơ sở sử dụng tổng thể tự nhiên, văn hóa lịch sử hiện có và các điều kiện kinh tế - xã hội của lãnh thổ [75]. Một số nghiên cứu cho thấy, vùng du lịch là không gian du lịch gồm nhiều địa phương khác nhau, là một tổng thể thống nhất của các đối tượng tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ở đó có các yếu tố của du lịch như tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng du lịch, nguồn lao động du lịch, nhu cầu và số lượng khách du lịch và các yếu tố kinh tế - xã hội khác. Đặc trưng của mỗi vùng thể hiện ơ sự khác biệt về tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Để liên kết phát triển du lịch, việc tổ chức lãnh thổ du lịch là vấn đề được quan tâm hàng đầu, lý do là không thể tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động liên kết nếu không xem xét khía cạnh không gian (lãnh thổ) của nó. Tổ chức lãnh thổ du lịch (Territorial organization of tourism) là phân chia lãnh thổ quốc gia thành các vùng kinh tế du lịch, nhằm phát huy lợi thế, tổ chức và kinh doanh du lịch đạt hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất. Tổ chức lãnh thổ du lịch được hiểu là: (1) Một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ; (2) Nhằm sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên, kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác; (3) Tổ chức lãnh thổ du lịch mang tính lịch sử.
Có hai hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch phổ biến bao gồm:
Một là, hệ thống lãnh thổ du lịch. Đó là một thành tạo toàn vẹn về hoạt động và lãnh thổ, có sự lựa chọn các chức năng xã hội nhất định. Một trong những chức năng được lựa chọn là phục hồi và tái tạo sức khỏe, khả năng lao động, thể lực và trí lực. Hệ thống lãnh thổ du lịch chỉ là nơi tập trung tài nguyên du lịch và công trình kĩ thuật, do đó các hệ thống lãnh thổ du lịch có thể không khép kín toàn bộ lãnh thổ tự nhiên. Hệ thống lãnh thổ du lịch là hạt nhân tạo nên vùng du lịch.
Hệ thống được tạo thành bởi các phân hệ có quan hệ mật thiết với nhau, gồm: (i) Phân hệ khách: Là phân hệ trung tâm, chi phối các thành phần khác của hệ thống. Số
lượng và đặc điểm xã hội, nhân khẩu, dân tộc... của khách du lịch quyết định các thành phần khác của hệ thống. (ii) Phân hệ tài nguyên: Là điều kiện để thoã mãn nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và là cơ sở lãnh thổ cho việc hình thành hệ thống. (iii) Phân hệ công trình kĩ thuật: Đảm bảo cho cuộc sống bình thường của khách và nhân viên phục vụ về ăn ở, đi lại và những nhu cầu giải trí, tham quan, đặc biệt như chữa bệnh... (iv) Phân hệ cán bộ nhân viên phục vụ: Đáp ứng các dịch vụ cho khách hàng và đảm bảo cho các xí nghiệp hoạt động bình thường. (v) Bộ phận điều khiển: Có nhiệm vụ giữ cho cả hệ thống nói chung và từng phần hệ nói riêng hoạt động tối ưu.
Hai là, vùng du lịch. Vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ kinh tế - xã hội, một tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc mọi cấp có liên hệ với nhau và các xí nghiệp thuộc cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo cho hoạt động của các hệ thống lãnh thổ du lịch có chung chuyên môn hoá và các điều kiện kinh tế xã hội để phát triển du lịch. Như vậy vùng du lịch gồm 2 yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau: Hệ thống lãnh thổ du lịch; và không gian kinh tế - xã hội bao quanh.
Vùng du lịch có không gian rộng hơn, bao gồm cả các khu vực sản xuất hàng hoá, vật liệu, năng lượng, kho tàng, các công trình công cộng... Vùng du lịch là không gian kinh tế - xã hội nên có tính chất lịch sử, nghĩa là có thể thay đổi theo thời gian [214].
Á vùng du lịch được hiểu là cấp phân vị thứ hai sau vùng du lịch, là noi tập hợp các điểm du lịch, trung tâm du lịch (nếu có) và các tiểu vùng du lịch, tạo thành không gian lãnh thổ du lịch lớn hơn tiểu vùng du lịch; Á vùng du lịch bao gồm cả những địa phương không có điểm du lịch. Trong Á vùng du lịch, sự chuyên môn hóa bắt đầu hình thành, tuy chưa đậm nét. Sự hình thành Á vùng du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ở một số vùng du lịch, có thể không định hình rõ Á vùng du lịch và trong nhiều trường hợp, hệ thống phân vị chỉ thực sự có 4 cấp: Điểm du lịch – Trung tâm du lịch – Tiểu vùng du lịch – Vùng du lịch.
Trung tâm du lịch là sự kết hợp lãnh thổ của các điểm du lịch với mật độ cao, bao gồm các điểm du lịch chức năng được đặc trưng bởi sự gắn kết lãnh thổ về mặt kinh tế
- kỹ thuật và tổ chức, nơi có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch khá đồng bộ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách trong thời gian lưu trua dài. Trung tâm du lịch có quy mô nhất định về mặt diện tích, thường tương ứng với 1 tỉnh, là nơi có khả năng tạo vùng cao và liên kết vùng rất cao nên thường được xem là hạt nhân của vùng hay cực tăng trưởng của vùng du lịch.
Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị. Về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có quy mô nhỏ, là nơi tập trung một loại tài nguyên nào đó (tự nhiên, văn hóa – lịch sử hoặc kinh tế - xã hội) hoặc một công trình riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ. Điểm du lịch có thể được phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng. Sự kết nối các điểm du lịch gắn với các hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không) và các dịch vụ sẽ tạo thành tuyến du lịch; thời gian lưu trú của khách du lịch ở địa điểm du lịch thường là tương đối ngắn.
2.1.2.2. Liên kết vùng du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, liên quan tới nhiều ngành nghề, nhiều bên tham gia. Các hoạt động đi du lịch và kinh doanh du lịch cũng diễn ra trên phạm vi rộng, đòi hỏi sự hợp tác của các bên trong quá trình tổ chức hoạt động du lịch, kinh doanh và quản lý du lịch.
Trước hết, xét trên góc đi chuyến đi của khách du lịch, được hiểu là quá trình rời khỏi chỗ ở thường xuyên, di tới và lưu lại một địa điểm mới thể tham quan, tìm hiểu, khám phá, nghỉ ngơi …, hoạt động du lịch trải trên một phạm vi rộng, với thời gian dài (ít nhất là một ngày, theo định nghĩa du lịch của Tổ chức Du lịch Thế giới - UNWTO). Quá trình đi du lịch của khách trải qua nhiều địa phương khác nhau, ít nhất là trên quãng đường từ nơi cư trú của khách tới nơi khách đi du lịch. Hoạt động của khách du lịch cũng không bó hẹp tại một địa điểm, một điểm du lịch mà thường có xu hướng tới nhiều điểm du lịch khách nhau có thể ở nhiều địa phương khác nhau.
Liên kết vùng du lịch bao gồm liên kết nội vùng và liên kết vùng.
Liên kết nội vùng là sự hợp tác, hỗ trợ và phân công giữa các á vùng (nếu có), các tiểu vùng và các địa phương trong vùng dựa trên những lợi thế so sánh của từng á vùng (nếu có), tiểu vùng và từng địa phương nhằm thực hiện thành công các định hướng chiến lược phát triển du lịch của chính các á vùng, tiểu vùng và các địa phương trong vùng.
Liên kết liên vùng là sự hợp tác và phân công giữa vùng du lịch dựa trên những lợi thế so sánh của từng vùng nhằm thực hiện thành công các định hướng chiến lược phát triển du lịch, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển du lịch của chính các vùng du lịch đó. Thông thường liên kết liên vùng được thực hiện giữa hai vùng có địa giới liền kề.
Theo tác giả, liên kết vùng du lịch chính là hợp tác và phân công giữa các bên tham gia trong một số lĩnh vực phát triển du lịch chính, bao gồm: hợp tác phân bổ lại nguồn lực, điều chỉnh quy hoạch phát triển phù hợp với thế mạnh của từng địa phương trong vùng, trong từng giai đoạn phát triển; liên kết trong phát triển sản phẩm du lịch, đặc biệt là các sản phẩm đặc trưng của nhóm các địa phương, của các tiểu vùng trong vùng hoặc giữa hai vùng du lịch liền kề; liên kết trong xúc tiến quảng bá và phát triển thương hiệu điểm đến và sản phẩm du lịch; liên kết thiết lập sự thống nhất về không gian du lịch vùng (hệ thống điểm, tuyến du lịch) thông qua phát triển hạ tầng kết nối lãnh thổ; liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; hợp tác trong huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế chính sách để đầu tư phát triển du lịch chung của vùng; hợp tác cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh vùng du lịch; hợp tác xây dựng hệ thống thông tin và trao đổi thông tin du lịch phục vụ các mục tiêu phát triển du lịch của vùng; hợp tác bảo vệ môi trường đối với các vấn đề môi trường mang tính vùng, ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu trong lĩnh vực du lịch.
Liên kết tiểu vùng là liên kết các loại phân vị lãnh thổ thuộc vùng du lịch. Tuy nhiên, đối với liên kết tiểu vùng có một số nội dung liên kết cụ thể không được đặt ra. Tuy nhiên, liên kết vùng và liên kết tiểu vùng du lịch sẽ rất khó thực hiện nếu không có tổ chức chuyên trách quản lý hoạt động du lịch của vùng và từng tiểu vùng. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có chủ thể cụ thể đại diện vùng và các tiểu vùng tham gia thực hiện liên kết. Chính vì vậy, có lúc, liên kết vùng và liên kết tiểu vùng chỉ mang ý nghĩa “biểu trưng” và “ý tưởng” trong quy hoạch phát triển du lịch của vùng du lịch, đặc biệt là kết nối giao thông.
Ở góc độ tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ du lịch, khách du lịch thường tiêu dùng nhiều loại sản phẩm và dịch khác nhau, từ những sản phẩm mang tính đặc trưng của du lịch như khách sạn, nhà hàng, tua du lịch, tới cá sản phẩm mang tính bổ trợ, có thể là những sản phẩm hàng hóa thông thường tại địa phương.
Các bên tham gia trong ngành du lịch | |||
Đi du lịch | Kinh doanh du lịch | Quản lý du lịch | Khách du lịch |
Người dân kinh doanh du lịch | |||
Doanh nghiệp lữ hành | |||
Doanh nghiệp lư trú | |||
Các loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch khác | |||
Các doanh nghiệp cung cấp cho doanh nghiệp du lịch | |||
Người quản lý điểm du lịch | |||
Chính quyền tại điểm du lịch | |||
Chính quyền địa phương (xã, huyện, tỉnh, Trung ương) | |||
Các cơ quan tham gia (các ngành) khác | |||
Các tổ chức xã hội có liên quan | |||
Các bên tham gia khác |
Có thể bạn quan tâm!
- Liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ - 2
- Tổng Quan Một Số Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Liên Kết Và Liên Kết Phát Triển Vùng
- Liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ - 4
- Các Phạm Vi Của Hợp Tác, Liên Kết Vùng Trong Phát Triển Du Lịch
- Liên Kết Đào Tạo Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Kinh Nghiệm Của Một Số Địa Phương Trong Nước
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
Hình 2.1: Các bên tham gia trong các hoạt động du lịch
Nguồn: Xây dựng của tác giả. Ở góc độ kinh doanh du lịch, hoạt động du lịch gắn theo một chuỗi giá trị dài (UNWTO 2013) [193]. Một tour du lịch liên quan tới nhiều dịch vụ như lưu trú, ăn uống, mua sắm … Chính những dịch vụ này, như kinh doanh ăn uống, đòi hỏi phải mua sắm nhiều nguyên vật liệu, hàng hóa khác nhau từ địa phương cũng như những nơi khác. Chính vì vậy, du lịch được xem là một “ngành kinh tế tổng hợp” với sự tham gia của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Mối liên hệ, hợp tác giữa các ngành, các doanh
nghiệp là điều kiện không thể thiếu.
Phát triển du lịch là một mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế vùng đồng thời cũng có thể coi là một yếu tố/điều kiện thúc đẩy việc thực thi các chính sách phát triển vùng, liên kết vùng và tiểu vùng ở những khu vực địa lý có chung đặc điểm tự nhiên, nhân văn, có thể kết nối tạo thành các tiềm năng hợp tác phát triển du lịch để mang lại giá trị kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng vùng. Chính vì vậy, ban hành chính sách phát triển du lịch dựa trên liên kết vùng và tiểu vùng cần căn cứ tiếp cận hai chiều với vai trò của Chính phủ trong xác định chiến lược phát triển vùng, liên kết vùng; ưu tiên đầu tư đảm bảo các điều kiện phát triển tiểu vùng và vai trò chủ động của chính quyền địa phương trong xác định các mục tiêu phát triển du lịch theo hướng liên kết vùng, tiểu vùng.
2.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi của liên kết vùng trong phát triển du lịch
2.1.3.1. Mục tiêu
Liên kết phát triển du lịch nhằm khai thác tối đa và phát huy có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, của từng tiểu vùng và toàn vùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng du lịch nhanh và bền vững. Phát triển mạnh các sản phẩm du lịch đặc thù của từng địa phương và vùng có giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh ở tầm quốc gia, khu vực và quốc tế; góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và trình độ dân trí cho các cộng đồng địa phương.
Một là, tạo ra lợi thế cạnh tranh về du lịch vùng trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như giảm chi phí du lịch, quản lý tài nguyên bền vững, tăng hiệu quả đầu
tư công và đầu tư xã hội, tăng quy mô du lịch. Khi các tỉnh trong vùng tham gia vào hoạt động liên kết du lịch, sẽ có nhiều thỏa thuận hợp tác được thiết lập đa phương và song phương tạo thành mạng lưới du lịch, làm giản chi phí và các rào cản. Liên kết du lịch còn làm hình thành các giá trị chung mà mỗi chủ thể phải tôn trọng. Mặt khác, tương tác trong liên kết du lịch sẽ tạo ra luồng thông tin và kiến thức lan tỏa trong mạng lưới, mạng lưới càng dày, sức lan tỏa càng cao là điều không xảy ra nếu như không thực hiện liên kết.
Hai là, phát huy tối đa và sử dụng hợp lý lợi thế một vùng về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thành lợi thế cạnh tranh tổng hợp, thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất, qua đó phát huy tiềm năng và lợi thế của từng địa phương và nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong điều kiện tương đồng về các tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa giữa các tỉnh trong vùng, liên kết tiểu vùng, tiểu vùng kết nối các lợi thế tuyệt đối này thành một chỉnh thể phân công và chuyên môn hóa sản xuất. Từng địa phương sẽ tập trung vào các thế mạnh nổi bật, đặc thù và trao đổi với các địa phương khác tạo thành một chuỗi sản phẩm du lịch liên hoàn và các tỉnh đều có lợi trong mối quan hệ này.
Ba là, tìm ra các điểm đột phá phát triển của các trung tâm, cực tăng trưởng du lịch, tạo nên các tác động lan tỏa phát triển cho các địa phương khác; thúc đẩy cải cách thể chế, thu hút đầu tư, hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch, vai trò vượt trội về hiệu quả đầu tư và lan tỏa, khả năng cửa ngõ kết nối quốc tế của các trung tâm tăng trưởng thông qua việc rà soát khoanh vùng chuẩn xác, xây dựng cơ chế chính sách du lịch thực sự có tính vượt trội, tăng cường tính tập trung kinh tế.
Bốn là, thúc đẩy liên kết quốc tế, xây dựng hình ảnh vùng du lịch có tính đặc thù cao, có khả năng cạnh tranh quốc tế; giảm chi phí, chồng chéo trong đầu tư, hạn chế mâu thuẫn trong quy hoạch và đầu tư, thu hút đầu tư giữa các địa phương.
Năm là, giảm dần tình trạng phát triển chênh lệch giữa các địa phương, với việc hình thành các cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp, có tính ưu đãi về du lịch cho các vùng khó khăn, nhất là về đầu tư công và các dịch vụ công cơ bản; chính sách đặc thù cho từng vùng khó khăn, kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm nhằm tạo ra sự liên kết và tham gia các vùng này vào quá trình phát triển.
Sáu là, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo cho các cộng đồng dân cư. Các hoạt động du lịch sẽ góp phần quan trọng tăng nguồn thu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo tác dụng lan tỏa phát triển các ngành nghề khác trên địa bàn. Hoạt động du lịch, nhất là du lịch cộng đồng góp phần quan trọng tạo thêm việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo và bảo đảm sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư bản địa.
Bảy là, bảo vệ môi trường tài nguyên du lịch thông qua các cam kết về chất lượng dịch vụ, phương tiện đối với các doanh nghiệp lữ hành; phối hợp tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho khách du lịch và các cộng đồng dân cư; tổ chức các lớp tập huấn về bảo vệ môi trường cho nhân dân địa phương.
2.1.3.2. Nguyên tắc
Có rất nhiều các nguyên tắc khác nhau trong liên kết vùng, tiểu vùng theo các tiếp cận khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Văn Huân (2012), liên kết vùng cần được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản là: (1) Phân bố các ngành và phân bố vùng phải dựa trên các lợi thế so sánh có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sản