Từ đó, phân ra 3 loại khuynh hướng tình dục thường gặp là:
- Khuynh hướng tình dục khác giới (Heterosexual/Straight) hay còn gọi là dị tính luyến ái: Bị hấp dẫn bởi người khác giới tính với mình, chiếm đa số trong xã hội hiện nay, bắt nguồn từ tiếng Hi lạp heteros có nghĩa là “khác”.
- Khuynh hướng tình dục đồng giới (Homosexual) hay còn gọi là đồng tính luyến ái: Bị hấp dẫn bởi người cùng giới tính với mình, bắt nguồn từ tiếng Hi lạp homos có nghĩa là “cùng”.
- Khuynh hướng tình dục lưỡng giới (Bisexual) hay còn gọi là lưỡng tính luyến ái: Bị hấp dẫn bởi cả người khác giới và người cùng giới.
- Cũng có thể có một xu hướng nữa tuy hiếm gặp là vô dục (asexual)
hay còn gọi là vô tính: Không bị hấp dẫn tình dục bởi bất kỳ người nào khác.
Theo khoa học, không thể chọn lựa khuynh hướng tình dục mà nó chịu tác động phức tạp bởi các yếu tố bẩm sinh và môi trường. Rất khó để có thể thay đổi được khuynh hướng tình dục, kể cả khi người đó muốn dùng ý chí, chưa có bằng chứng khoa học nào khẳng định được điều này. Một số người do những áp lực xã hội cố tỏ ra là đã thay đổi khuynh hướng tình dục của mình nhưng trong thực tế thì họ không thể làm được điều đó [64].
1.1.2.2. Nhận dạng tình dục (Sexual identity): Là ý thức của mỗi người tự nhìn nhận về khuynh hướng tình dục của mình bị hấp dẫn bởi người cùng giới, người khác giới hay cả hai giới trên cơ sở trải nghiệm, cảm giác, suy nghĩ của chính họ chứ không dựa trên cơ sở giới hay giới tính của bạn tình. Một người có thể tự coi mình là dị tính, hoặc đồng tính, hoặc lưỡng tính [64].
1.1.2.3. Quan hệ tình dục (sexual/intercouse): Còn gọi là giao hợp hay giao cấu, thường chỉ hành vi đưa bộ phận sinh dục nam vào trong bộ phận sinh dục nữ. Quan hệ tình dục (QHTD) cũng có thể là giữa những người khác hoặc cùng giới tính hoặc lưỡng tính. Những năm gần đây, việc thực hiện QHTD với những bộ phận không phải là bộ phận sinh dục (quan hệ đường miệng, đường hậu môn, hoặc dùng ngón tay) cũng được bao gồm trong định nghĩa này.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến lây nhiễm HIV và một số nhiễm trùng lây qua đường tình dục ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội, 2009 - 2010 - 1
- Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến lây nhiễm HIV và một số nhiễm trùng lây qua đường tình dục ở nhóm nam bán dâm đồng giới tại Hà Nội, 2009 - 2010 - 2
- Các Hành Vi Tình Dục Và Sử Dụng Chất Gây Nghiện
- Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hành Vi Tình Dục Nguy Cơ
- Khung Can Thiệp Dự Phòng Hiv Và Stis Cho Nhóm Ntdđg/nbdđg
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
Có hành vi tình dục thâm nhập và hành vi tình dục không thâm nhập. Tình dục đường âm đạo, đường miệng, đường hậu môn được coi là tình dục thâm nhập. Những hành vì tình dục khác và thủ dâm lẫn nhau được coi là tình dục không thâm nhập.
QHTD an toàn: Là QHTD không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và/hoặc lây nhiễm các NTLQĐTD như: HIV, lậu, giang mai… Các biện pháp đảm bảo QHTD an toàn như sử dụng bao cao su (BCS) bất kỳ khi nào có QHTD, sống chung thủy và kiểm tra sức khỏe định kỳ
QHTD không bảo vệ: Là không dùng hoặc dùng không thường xuyên
BCS khi QHTD [64].
1.1.2.4. Các hình thức QHTD
- QHTD đường âm đạo: Là người nam dùng dương vật đưa vào âm đạo
của người nữ để QHTD.
- QHTD đường hậu môn: Là người nam dùng dương vật đưa vào hậu
môn của bạn tình (bao gồm cả bạn tình nam và bạn tình nữ) để QHTD.
- QHTD đường miệng: Là người nam dùng dương vật đưa vào miệng
bạn tình (bao gồm cả bạn tình nam và bạn tình nữ) để QHTD.
- Người cho: Là người đưa dương vật của họ vào miệng hoặc âm đạo hoặc hậu môn của bạn tình trong QHTD qua đường miệng, âm đạo và hậu môn.
- Người nhận: Là người bị bạn tình đưa dương vật của họ vào miệng hoặc âm đạo hoặc hậu môn của mình trong QHTD qua đường miệng, âm đạo và hậu môn [64].
1.1.2.5. Hành vi tình dục (sexual behavior): Là những hành động như âu yếm, vuốt ve, hôn, giao hợp... nhằm thể hiện và thỏa mãn tình dục.
Khuynh hướng tình dục của một người không phải lúc nào cũng được thể hiện qua hành vi tình dục của người đó. Ví dụ: Một người có khuynh hướng tình dục đồng giới (người đồng tính) nhưng do áp lực của gia đình, anh
phải lấy vợ và sinh con. Tương tự, hành vi tình dục của một người không nhất thiết phản ánh khuynh hướng tình dục hoặc nhận dạng tình dục của người đó. Ví dụ: những người đàn ông có khuynh hướng tình dục khác giới (dị tính) sống trong một môi trường biệt lập, thiếu vắng phụ nữ trong một thời gian dài, có thể có quan hệ tình dục với nhau. Tuy nhiên, khi ra khỏi môi trường đó họ lại tìm đến phụ nữ [64].
1.1.2.6. Tình dục (sexuality): Tình dục là một hoạt động trọng tâm của toàn bộ cuộc sống con người và bao gồm: sự giao hợp, nhân dạng giới, vai trò giới, khuynh hướng tình dục, ái tình, sự thỏa mãn, sự riêng tư và sinh sản. Tình dục là sự trải nghiệm và sự thể hiện trong suy nghĩ, tưởng tượng, ham muốn, niềm tin, thái độ, giá trị, hành vi, hoạt động, vai trò và các mối quan hệ. Trong khi tình dục có thể bao gồm tất cả các yếu tố nhưng không phải tất cả luôn luôn có kinh nghiệm hoặc sự thể hiện. Tình dục chịu ảnh hưởng bởi sự tương tác giữa các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật, lịch sử, tín ngưỡng và tinh thần [64].
1.1.3. Các khái niệm về chuyển giới, chuyển giới tính, lưỡng giới tính, đồng
tính nam, nam quan hệ tình dục đồng giới, nam bán dâm đồng giới
1.1.3.1. Chuyển giới (Transgender): Là một thuật ngữ được sử dụng trong những năm gần đây để chỉ "giới tính thứ ba" loại được tìm thấy trong nhiều xã hội, như các kathoey ở Thái Lan, bakla ở Philippines, và waria ở Indonesia. Là tình trạng mà một người có các đặc điểm cơ thể hoàn toàn bình thường về mặt giới tính (nam hoàn toàn hay nữ hoàn toàn) nhưng lại tin rằng họ thuộc về giới tính khác (nam nhưng nghĩ mình là nữ, hay nữ nghĩ mình là nam) và sống như giới tính mà họ tin [64].
1.1.3.2. Chuyển giới tính (transsexual): Là thực hiện phẫu thuật, điều trị hóc
môn...để đổi giới tính sinh học từ nam sang nữ hoặc từ nữ sang nam [64].
1.1.3.3. Lưỡng giới tính (intersex): Còn gọi là mơ hồ giới tính (ambiguous genitalia, intersex, hermaphroditism) là những người có bất thường thật sự về biệt hóa giới tính, bất thường về hình thể và cơ quan sinh dục. Nguyên nhân có thể do bất thường về gen, nội tiết… có thể có những đặc điểm sinh học của cả nam và nữ hoặc không rõ nam hay nữ [64].
1.1.3.4. Đồng tính nam (gay): Một người nam giới bị hấp dẫn, hoặc có ham muốn tình dục với người nam giới khác. Đồng tính nam chỉ khuynh hướng tình dục đồng giới của một người nam giới [64].
1.1.3.5. Nam quan hệ tình dục đồng giới - MSM (Men who have sex with men)
Nam quan hệ tình dục đồng giới là một thuật ngữ chỉ hành vi quan hệ tình dục của những người nam giới với những người nam giới khác với bất kì hoàn cảnh nào, không phụ thuộc vào khuynh hướng tình dục, nhân dạng tình dục và nhân dạng giới [34]. Thuật ngữ này du nhập vào Việt Nam năm 1990 cùng với việc xuất hiện dịch HIV. Thuật ngữ này không được biết đến rộng rãi như thuật ngữ “đồng cô” ở miền Bắc và “bóng” (cách gọi ngắn gọn của bóng cái) ở miền Nam, thuật ngữ “gay” cũng được dùng tương đối phổ biến.
NTDĐG bao gồm những người nam có khuynh hướng tình dục đồng giới, lưỡng giới hoặc khác giới và có rất nhiều nguyên nhân mà nam giới QHTD với một nam giới khác như do sự ham muốn của bản thân, một số khác làm vì tiền, vì những lợi ích khác hoặc là do sống trong môi trường thiếu phụ nữ (nhà tù/trại giam, doanh trại quân đội, lao động di cư, các cơ sở giáo dục đào tạo dành cho nam giới..), một số người bị ép buộc (trẻ em đường phố, thanh thiếu niên hoặc nam giới trong các cơ sở tập trung…).
1.1.3.6. Nam bán dâm đồng giới
Bán dâm là hành vi QHTD của một người với người khác để được trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác [12].
Nam bán dâm đồng giới được định nghĩa là nam giới (về mặt giới tính) có QHTD với một người nam giới khác để nhận tiền hoặc vật chất (chỗ ở, thức ăn, ma túy…).
Nhận dạng giới và nhận dạng tình dục trong nhóm NBDĐG khá đa dạng dựa trên khuynh hướng tình dục của bản thân. Họ có thể tự nhận mình là đàn ông (trai thẳng) vì chỉ thích QHTD với phụ nữ. Họ có thể nhận mình là bóng lộ hay bóng kín do có khuynh hướng tình dục đồng giới, hoặc họ có thể nhận mình là haifai vì có khuynh hướng tình dục lưỡng giới [10].
1.1.3.7. Một số từ ngữ/khái niệm được sử dụng trong nhóm NTDĐG/NBDĐG [2], [70]
- Gay: Nam có khuynh hướng tình dục đồng giới.
- Đồng cô: Người chuyển giới.
- Bóng kín: Để chỉ những người nam QHTD đồng giới có vẻ ngoài nam tính, mặc quần áo của nam và không bao giờ bộc lộ khuynh hướng tình dục cũng như các hành vi của mình.
- Bóng lộ: Để chỉ những người nam QHTD đồng giới có cử chỉ nữ tính,
cởi mở bộc lộ cách sống của người chuyển giới.
- Trai thẳng/đàn ông/cọng (straight men): Để chỉ người nam có khuynh hướng tình dục khác giới
Có một số từ ngữ mang tính xúc phạm ít hoặc nhiều như:
- Pê - đê, xăng pha nhớt, hai thì: Để chỉ những người đàn ông trông giống như phụ nữ;
- Hai phai, đa hệ: Để chỉ những người đàn ông có QHTD với cả nam và nữ.
- Nam bán dâm đồng giới có thể hoặc là bóng kín, hoặc là bóng lộ hoặc là nam giới có khuynh hướng tình dục khác giới thường được gọi bằng thuật ngữ phân biệt đối xử: đĩ đực.
1.1.4. Khái niệm về các nhiễm trùng lây qua đường tình dục
Là các nhiễm trùng do các tác nhân là vi khuẩn, virút, đơn bào, nấm, kí
sinh gây nên và lây truyền từ người này sang người khác qua QHTD.
Hầu hết các vi khuẩn, đơn bào, nấm và kí sinh vật có thể bị diệt bởi các thuốc điều trị đặc biệt. Trái lại, các vi rút hiện nay chưa có thuốc nào diệt được, do vậy chúng tồn tại trong cơ thể trong một thời gian dài hoặc suốt cuộc đời.
Một số tác nhân gây STIs:
- Vi khuẩn: xoắn khuẩn giang mai, lậu cầu, chlamydia trachomatis, trực khuẩn hạ cam, ureaplasma urealyticum, calymmatobacterium granulomatis, gardnerella vaginalis, liên cầu nhóm B, vi khuẩn kỵ khí âm đạo.
- Vi rút: herpes simplex, u mềm lây, HIV, vi rút viêm gan B (HBV), vi rút viêm gan C (HCV).
- Nấm và các tác nhân khác: nấm men Candida, trùng roi âm đạo, cái
ghẻ, rận mu [8].
1.2. Một số đặc điểm của nhóm NTDĐG/NBDĐG trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Kích cỡ quần thể nhóm NTDĐG/NBDĐG
Tình dục đồng giới tồn tại trong mọi quốc gia và mọi nền văn hóa [66]. Tuy nhiên do bị kỳ thị và phân biệt đối xử, thậm chí bị cấm và xử phạt nên rất nhiều người nam không bộc lộ thông tin về hành vi QHTD đồng giới của mình. Điều này khiến cho việc xác định số lượng những người nam giới đã từng có quan hệ tình dục với một người nam giới khác là khó khăn trên toàn thế giới.
Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng ít nhất là 3,0% và cao nhất là 16,0% nam giới đã có QHTD ít nhất một lần với một người nam giới khác. Ước tính bao gồm những người nam giới thường xuyên hoặc tự nguyện có QHTD với nam giới, các nạn nhân của lạm dụng tình dục [39]. Liên Hiệp Quốc ước tính 6,0 - 20,0% nam giới trên toàn thế giới có QHTD với những
người nam giới khác tại một số điểm trong suốt cuộc đời của họ [67]. Ở Đông Á, các nghiên cứu đã ước lượng khoảng 3,0% - 5,0% nam giới đã từng có QHTD đồng giới trong cuộc đời và tỷ lệ này ở vùng Nam và Đông Nam Châu Á là 6,0% - 18,0% [66].
Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu về kích cỡ quần thể nhóm NTDĐG tại Việt Nam, thông tin về kích cỡ quần thể NTDĐG được sử dụng rộng rãi nhất là những số liệu được đưa ra trong báo cáo Ước tính và Dự báo HIV/AIDS của Việt Nam 2007 - 2012 với ước tính thấp có khoảng 160.544 NTDĐG, ước tính cao có khoảng 481.631 NTDĐG và ước tính trung bình có khoảng 321.088 NTDĐG [7].
Trên thế giới tỷ lệ NBDĐG trong nhóm NTDĐG dao động từ 20,0% - 74,0%, tùy theo từng quốc gia [22]. Tại Việt Nam, tỷ lệ này dao động từ 22,0% - 52,4% tùy theo tỉnh/thành phố [3], [9], [14], [31], [32].
1.2.2. Đặc điểm nhân khẩu - xã hội, nhận dạng tình dục, nhận dạng giới
Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam đã chỉ ra rằng nhóm NTDĐG trên thế giới không thuần nhất và đa dạng về độ tuổi, trình độ văn hóa, chủng tộc/dân tộc, nơi cư trú, nghề nghiệp...[27], [42], [47], [54].
Nhóm NBDĐG cũng có các đặc điểm tương tự. Các nghiên cứu trên thế giới về nhóm NBDĐG tiến hành ở những độ tuổi khác nhau, nhưng phổ biến ở nam giới trẻ. Họ có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học và đại học nhưng tập trung chủ yếu ở nhóm trung học (55,0% - 67,4%), đặc biệt tại Ấn Độ và Pakistan, nhóm NBDĐG có trình độ văn hóa thấp, có tới 37,0% những người mù chữ tại Ấn Độ và 52,0% không được học chính thức tại Pakistan. Phần lớn nhóm NTDĐG độc thân (75,0% - 85,0%), một tỷ lệ đã kết hôn hoặc sống với một bạn tình lâu dài. Thời gian bán dâm chủ yếu dưới 2 năm, một tỷ lệ thấp hơn từ 3 năm trở lên. Nhóm NBDĐG làm việc trong các ngành nghề khác nhau và có một tỷ lệ tương đối cao thất nghiệp, tôn giáo đa
dạng như thiên chúa giáo, đạo hồi, công giáo, vô thần… [17], [19], [20], [38], [41], [43], [45], [48], [57], [61], [62].
Phần lớn NBDĐG đến từ các quốc gia khác [19], [21]. Tại Tây Ban Nha, chỉ có 5,0% là người Tây Ban Nha, 12,0% đến từ các nước Châu Âu khác, đa số đến từ Mỹ La Tinh (83,0%), tại Moscow - Nga, 86,0% NBDĐG đến từ các nơi khác. Nhóm NBDĐG bao gồm những người đồng tính nam (gay), lưỡng tính và dị tính. Điều này có nghĩa là một quần thể đa dạng nam giới đang tham gia vào hành vi tình dục bán dâm đồng giới chứ không chỉ riêng có một quần thể nam giới đồng nhất (nhóm đồng tính nam). Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng trong quần thể NBDĐG có một số người không tự coi mình là đồng tính, một số người tự nhận mình là đàn ông, một số khác tự nhận là phụ nữ...[19], [20], [43], [48]. Nghiên cứu tại Mumbai, Ấn Độ năm 2003, trong số 75 NBDĐG, 24 người là đàn ông và 51 là người chuyển giới [62]. Tại Mexico (2006 - 2007), NBDĐG là nhóm có điều kiện kinh tế thấp, gồm nhóm nam giới trẻ, nhóm chuyển giới, lưỡng tính và gay, được phân loại theo các hình thức khác nhau như: thỉnh thoảng bán dâm và thường xuyên bán dâm hay bán dâm thường xuyên trên đường phố và bán dâm qua quảng cáo, dịch vụ (internet, tạp chí, …) [26].
Tại Việt Nam, nhóm NBDĐG cũng có các đặc điểm tương tự, nghiên cứu năm 2009 tại TP HCM, Hà Nội, Cần Thơ và Hải Phòng cho thấy nhóm NBDĐG gồm một số lượng đáng kể đến từ tỉnh khác (40,0% - 87,0%) với nghề nghiệp tương đối đa dạng và mức thu nhập dao động tùy theo tỉnh/thành phố [9].
Tỷ lệ nhóm NBDĐG tự nhận là người đồng tính nam/gay, lưỡng tính, dị tính, là đàn ông, là phụ nữ khác nhau giữa các thành phố. Tại Hà Nội, tỷ lệ tự nhận mình là dị tính cao hơn so với các nhóm còn lại, tương ứng với nhận dạng tình dục dị tính, đa số nhóm NBDĐG tự nhận mình là đàn ông (76,4%)