Thủ tục đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và tư vấn Phan Dũng - 2


Đề tài nghiên cứu sử dụng những phương pháp thu thập tài liệu thực tế, phương pháp phỏng vấn, khảo sát hồ sơ, phương pháp so sánh và phân tích, tổng hợp về lý luận và thực tiễn quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài ra, đề tài cũng áp dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rò các số liệu, qua đó có cái nhìn tổng quát và rò ràng hơn về việc thực hiện quy trình trên tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Phan Dũng.

1.4. KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Nội dung đề tài gồm 4 chương như sau: Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Lý luận chung về rủi ro kiểm toán và đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai

đoạn lập kế hoạch kiểm toán

Chương 3: Thực trạng quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Phan Dũng (PDAC)

Chương 4: Nhận xét, kiến nghị về quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại công ty PDAC


CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH

KIỂM TOÁN

2.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN

2.1.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán

Mục đích tổng quát của kiểm toán là cung cấp sự đảm bảo cho bên thứ ba là những người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ được cung cấp có trung thực, hợp lý hay không. Tuy nhiên, do hạn chế tiềm tàng của cuộc kiểm toán cũng như từ hệ thống kiểm soát nội bộ mà luôn luôn tồn tại rủi ro không thể tránh khỏi đối với BCTC theo VSA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu.” đó là báo cáo tài chính vẫn còn chứa đựng những sai sót trọng yếu nhưng KTV lại nhận xét chúng đã được trình bày một cách trung thực và hợp lý. Trường hợp KTV đưa ra ý kiến không thích hợp rằng BCTC đã được kiểm toán còn có sai sót trọng yếu trong khi thực tế các sai sót trọng yếu này không tồn tại thì không được xem là rủi ro kiểm toán. Trong trường hợp này, các KTV thường xem xét lại hoặc mở rộng các thủ tục kiểm toán và yêu cầu khách hàng thực hiện một số công việc cụ thể nhằm đánh giá lại sự thích hợp của BCTC. Các thủ tục này sẽ giúp KTV đưa ra nhận xét hợp lý hơn.

Về mặt lý thuyết, phạm vi rủi ro kiểm toán đi từ 0 (hoàn toàn không có rủi ro kiểm toán) đến 1 (chắc chắn tồn tại rủi ro kiểm toán). Tuy nhiên, trên thực tế rủi ro kiểm toán luôn luôn lớn hơn 0, các sai sót tiềm tàng luôn luôn tồn tại vì những hạn chế tiềm tàng trong hệ thống kế toán và kiểm toán liên quan mật thiết đến yếu tố môi trường và con người. Thông thường, các nghiệp vụ chính sẽ được giám sát chặt chẽ bởi hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp nên ít có khả năng gia tăng các sai sót trọng yếu. Ngược lại, các nghiệp vụ bất thường và các khoản ước tính kế toán của doanh nghiệp thường làm gia tăng sai sót trọng yếu. Do đó, KTV cần phải giới hạn rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được bằng việc thiết kế các thủ tục kiểm toán hiệu quả nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho việc ra ý kiến.

2.1.2. Những nguyên nhân gây ra rủi ro kiểm toán


Rủi ro kiểm toán gắn liền với các sai sót trọng yếu trên BCTC. Các nguyên nhân dẫn

đến BCTC có sai sót trọng yếu bao gồm:

- KTV thường chỉ có thể chọn mẫu để kiểm tra chứ không thể kiểm tra toàn bộ tổng thể.

- Bằng chứng KTV thu thập được chỉ mang tính thuyết phục, không phải là bằng chứng chứng minh tuyệt đối.

- Gian lận thường khó phát hiện hơn sai sót.

- Hành vi không tuân thủ pháp luật.

- Sự vi phạm giả thiết hoạt động liên tục.

Việc hiểu rò các nhân tố gây ra sai sót trọng yếu trên BCTC là vô cùng cần thiết trong công tác đánh giá rủi ro. Điều này giúp KTV dễ dàng theo dòi các dấu hiệu, điều kiện làm gia tăng rủi ro.

2.1.3. Sự cần thiết của việc đánh giá rủi ro

Bất kì cuộc kiểm toán nào cũng có những hạn chế tiềm tàng dẫn đến khả năng KTV đưa ra ý kiến không thích hợp về BCTC. Bên cạnh đó, các nghiệp vụ phát sinh trong doanh nghiệp ngày càng phức tạp làm cho rủi ro kiểm toán tăng lên, đặc biệt khi doanh nghiệp cố tình gian lận. Trong khi đó, KTV không thể kiểm tra hết tất cả mà chỉ tập trung vào những vùng có rủi ro cao. Vì vậy, đánh giá rủi ro giúp KTV và công ty kiểm toán xác định được những số dư, nghiệp vụ có rủi ro cao, từ đó xác định mục tiêu kiểm toán trọng tâm, lựa chọn phương án tiếp cận và các thủ tục kiểm toán hữu hiệu và hiệu quả. Vai trò đó được thể hiện cụ thể trong từng giai đoạn của cuộc kiểm toán.

Trong giai đoạn tiền kế hoạch, đánh giá rủi ro giúp KTV và công ty kiểm toán quyết định nên tiếp nhận hay từ chối khách hàng, đồng thời ước lượng khối lượng công việc thực hiện để tính phí kiểm toán, sắp xếp KTV và xác định thời gian của cuộc kiểm toán.

Trong giai đoạn lập kế hoạch, đánh giá rủi ro giúp KTV giới hạn phạm vi công việc ở mức độ cần thiết để vừa tiết kiệm thời gian vừa đảm bảo được chất lượng kiểm toán với một mức phí hợp lý và cạnh tranh, đồng thời xác định được các khoản mục chứa đựng rủi ro cao để sắp xếp và phân bổ nhân sự hợp lý. “Nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán bao gồm phương hướng áp dụng các kỹ thuật kiểm toán đối với những khoản mục chủ yếu của báo cáo tài chính, được xây dựng dựa trên mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán đã được xác định và đánh giá. Nội dung này có thể được trình bày dưới dạng một bảng phác thảo vắn tắt về các thủ tục kiểm toán chủ yếu hoặc một bảng kế hoạch sơ bộ cho kiểm toán các khoản mục (hình 1.1). Các thông tin này


là cơ sở cho việc thiết kế những thủ tục kiểm toán chi tiết trong chương trình kiểm toán sau này.

Hình 2.1: Minh hoạ kế hoạch sơ bộ cho các khoản mục được kiểm toán


Khoản mục

Các nhân tố làm tăng (giảm) rủi ro

Đánh giá rủi ro

Phương hướng áp dụng các kỹ thuật kiểm toán

Tiềm tàng

Kiểm soát

Doanh thu

Mục tiêu doanh thu gây sức ép bất thường lên Giám đốc kinh doanh

X


Tìm hiểu về mục tiêu, chiến lược và những rủi ro kinh doanh của đơn vị

Hàng tồn kho

Kế toán kho kiêm nhiệm thủ kho


X

Kiểm tra đối chiếu đơn đặt hàng, phiếu xuất kho, hoá đơn, vận đơn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

Thủ tục đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và tư vấn Phan Dũng - 2

Khi xác lập các nội dung trên, kiểm toán viên cần xem xét những thay đổi quan trọng trong các lĩnh vực kiểm toán so với năm trước, ảnh hưởng của hệ thống thông tin và những ảnh hưởng của kiểm toán nội bộ (nếu có).” (Kiểm toán, Đại học Kinh tế TP.HCM, 2011, tr.155)

Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, dựa vào rủi ro kiểm toán đã được đánh giá, KTV sẽ tiến hành các thủ tục kiểm toán theo đúng trọng tâm, giảm thiểu được các thủ tục kiểm toán không cần thiết, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, rủi ro kiểm toán là cơ sở để KTV và công ty kiểm toán soát xét lại hồ sơ kiểm toán và những công việc đã hoàn thành nhằm đảm bảo chất lượng kiểm toán.

2.1.4. Các bộ phận của rủi ro kiểm toán

Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận:

- Rủi ro tiềm tàng.

- Rủi ro kiểm soát.

Hai loại rủi ro này có thể gọi chung là rủi ro có sai sót trọng yếu trên các BCTC chưa được kiểm toán, tồn tại do bản chất môi trường kinh doanh, ngành nghề hoạt động cũng như sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị được kiểm toán.


- Rủi ro phát hiện: Rủi ro có sai sót trọng yếu trên BCTC do KTV không phát hiện ra trong quá trình kiểm toán.

Hình 2.2: Rủi ro kiểm toán và các bộ phận rủi ro cấu thành

Rủi ro tiềm tàng

Có sai lầm cụ thể nào hay không?


Rủi ro kiểm soát

Hệ thống KSNB có phát hiện được hay không?

Không

Rủi ro phát hiện

KTV phát hiện được bằng các thủ tục kiểm toán hay không?


Không

Rủi ro kiểm toán

Ý kiến sai


Nguồn: Sách Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM

2.1.4.1. Rủi ro tiềm tàng

a. Khái niệm

Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có, do khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh có thể chứa đựng sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm soát có liên quan (Đoạn 13 VSA 200).

Rủi ro tiềm tàng là khả năng có thể có những sai lệch trọng yếu trong BCTC bắt nguồn từ hoạt động, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp hay do bản chất của các khoản mục trước khi xem xét đến tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ


BCTC. Khi lập chương trình kiểm toán, KTV phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng cơ sở dẫn liệu. Rủi ro tiềm tàng được đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào xét đoán của KTV về sự ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tiềm tàng.

b. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng

Ở cấp độ tổng thể BCTC

- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán.

- Trình độ, kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, nhân viên kế toán chủ yếu, kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ.

- Những áp lực bất thường đối với Ban giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh bắt buộc Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày BCTC không trung thực.

- Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa.

- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị: các biến động về kinh tế, cạnh tranh, sự thay đổi thị trường mua bán và sự thay đổi hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.

Ở cấp độ cơ sở dẫn liệu

- BCTC có thể chứa đựng những sai sót như: BCTC có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước, BCTC chứa đựng nhiều ước tính kế toán hoặc có sự thay đổi chính sách kế toán trong năm tài chính.

- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản, nghiệp vụ kinh tế như: số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ ghi nhận chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu tài sản cố định (đưa vào chi phí hay ghi tang nguyên giá).

- Mức độ dễ mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu chi tiền mặt, tạm ứng với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài.

- Mức phức tạp các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi ý kiến của chuyên gia như kiện tụng, trộm cắp, …

- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ.

- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.

2.1.4.2. Rủi ro kiểm soát

a. Khái niệm


Theo VSA 200: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.

b. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm soát

Vì rủi ro kiểm soát xuất phát từ hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán nên các bộ phận của hệ thống kiểm soát nội bộ cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kiểm soát.

Rủi ro kiểm soát thể hiện hiệu quả của việc thiết kế, vận hành và duy trì kiểm soát nội bộ của Ban giám đốc nhằm giải quyết những rủi ro đã xác định có thể cản trở việc hoàn thành các mục tiêu của đơn vị trong quá trình lập và trình bày báo cáo tài chính (theo VSA 200). Tuy nhiên do những hạn chế vốn có của kiểm soát nội bộ, dù nó được thiết kế phù hợp và vận hành hiệu quả cũng không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro có sai sót trọng yếu trong BCTC. Ví dụ về những hạn chế vốn có của kiểm soát nội bộ: khả năng người thực hiện gây ra nhầm lẫn hoặc lỗi, một số kiểm soát bị vô hiệu do sự thông đồng hay lạm dụng quyền của người quản lý, …

2.1.4.3. Rủi ro phát hiện

a. Khái niệm

Rủi ro phát hiện là xác suất công việc kiểm toán mà KTV không phát hiện được sai sót trọng yếu trên BCTC.

Theo VSA 200: “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà trong quá trình kiểm toán, các thủ tục mà kiểm toán viên thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới mức thấp có thể chấp nhận được nhưng vẫn không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại”.

b. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro phát hiện

Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm do KTV thực hiện. Mức rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu KTV tăng các thử nghiệm chi tiết trên số dư và nghiệp vụ, mở rộng phạm vi kiểm tra hoặc tăng cường cỡ mẫu của các thử nghiệm. Ngược lại, đối với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý rủi ro phát hiện. Cần nhận thức rằng rủi ro phát hiện vẫn có thể xảy ra dù đã kiểm tra 100% số dư và nghiệp vụ vì rủi ro phát hiện gồm hai bộ phận: rủi ro lấy mẫu và rủi ro ngoài mẫu. Rủi ro lấy mẫu có thể giảm đến 0 bằng các kiểm tra


100% phần tử. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại rủi ro ngoài mẫu do KTV đã áp dụng và lựa chọn các thủ tục kiểm toán không phù hợp hay nhận định sai về kết quả mẫu.

Rủi ro phát hiện ảnh hưởng bởi các nhân tố như:

- Nội dung, phạm vi, thời gian của các thử nghiệm cơ bản.

- Rủi ro lấy mẫu: Rủi ro do mẫu được chọn không đủ đại diện cho tổng thể.

- Rủi ro ngoài mẫu: Rủi ro KTV giải thích sai hay nhận định sai về kết quả kiểm tra (Ví dụ KTV thiếu kiểm tra thông tin của các trợ lý thu thập nên tổng hợp và nhận định sai).

2.1.5. Mối quan hệ giữa các bộ phận của rủi ro kiểm toán

2.1.5.1. Mô hình rủi ro kiểm toán

Do tồn tại độc lập với các thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên, nên rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện. Bởi lẽ, dù có tiến hành kiểm toán hay không, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát vẫn tồn tại trong hoạt động và môi trường kinh doanh của đơn vị, cũng như nằm trong bản chất của những số dư tài khoản, hay các loại nghiệp vụ. Ngược lại, rủi ro phát hiện có thể kiểm soát được bởi kiểm toán viên thông qua việc điều chỉnh nội dung, thời gian và cũng như phạm vi của các thử nghiệm cơ bản. Tuỳ theo tình hình của đơn vị, kiểm toán viên sẽ tăng giảm công việc kiểm toán của mình để đạt được mục đích cuối cùng là rủi ro kiểm toán được giảm xuống thấp đến mức chấp nhận được với chi phí hợp lý.

Để trợ giúp cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, mô hình rủi ro kiểm toán được thiết lập và biểu thị bởi công thức sau:

AR = IR x CR x DR hoặc DR = AR / (IR x CR)

Trong đó: AR (Audit Risk): Rủi ro kiểm toán. IR (Inherent Risk): Rủi ro tiềm tàng.

CR (Control Risk): Rủi ro kiểm soát. DR (Detection Risk): Rủi ro phát hiện.

Qua công thức trên, ta dễ dàng nhận thấy mức rủi ro phát hiện tỉ lệ nghịch với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá cao, rủi ro phát hiện phải ở mức thấp để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được, nghĩa là kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán nhiều hơn để có thể thu thập đầy đủ các bằng chứng nhằm đưa ra ý kiến hợp lý và ngược lại.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/06/2022