Cung Cấp Thông Tin Kế Toán Quản Trị Gắn Với Chức Năng Kiểm Soát, Đánh Giá Của Nhà Quản Trị

+ Việc phân tích thông tin về giao khoán được thực hiện định kỳ mỗi năm một lần vào thời điểm cuối năm. Nội dung này do Đội trưởng các Đội sản xuất thực hiện với mục đích cung cấp thông tin cho việc lập Báo cáo tổng kết cuối năm.

Tuy nhiên, kết quả điều tra thực tế cho thấy, việc phân tích thông tin được thực hiện rất đơn giản, chỉ thực hiện liệt kê kết quả thực hiện các chỉ tiêu trong năm và những tồn tại cần khắc phục, không có sự so sánh giữa số liệu thực hiện so với kế hoạch hay phân tích nguyên nhân dẫn đến sự biến động.

2.3.1.4. Cung cấp thông tin kế toán quản trị gắn với chức năng kiểm soát, đánh giá của nhà quản trị

(*) Cung cấp thông tin kế toán quản trị về các yếu tố đầu vào sản xuất kinh

doanh


* Kế toán quản trị hàng tồn kho

Kết quả khảo sát (Phụ lục 1E) cho thấy, 100% ý kiến trả lời các CTLN đều sử

dụng các báo cáo trong hệ thống kế toán tài chính để báo cáo tình hình KTQT hàng tồn kho phục vụ cho chức năng kiểm soát HTK.

Minh hoạ Báo cáo tổng hợp nhập xuất tồn tại Phụ lục 2.12.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

Báo cáo này được lập căn cứ vào các sổ chi tiết NVL, công cụ dụng cụ… Báo cáo trình bày về các nội dung cụ thể về hàng tồn kho thể hiện chỉ tiêu về số lượng và chỉ tiêu về giá trị của mỗi loại NVL trong CTLN, bao gồm: số dư đầu kỳ, số phát sinh trong kỳ và số dư cuối kỳ . Mục đích lập báo cáo này nhằm xác định tình hình tăng, giảm NVL của công ty, đồng thời đối chiếu số liệu với sổ kế toán tổng hợp.

Các thông tin về HTK cung cấp đều thể hiện ở dạng số liệu tổng hợp từ kế toán tài chính, chưa trình bày thông tin có dạng so sánh, dưới dạng đồ thị hay phương trình kinh tế. Mặt khác, các báo cáo cũng chưa giải trình được nguyên nhân khi có chênh lệch. Các báo cáo đều được lập định kỳ theo năm nên tính kịp thời và hiệu quả cung cấp thông tin về HTK vẫn còn hạn chế.

Hoàn thiện kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang - 18

Hộp 2. 12. Thông tin KTQT hàng tồn kho chưa đáp ứng được nhu cầu quản trị


Khi Ban Giám đốc cần xem xét thông tin về hàng tồn kho, bộ phận kế toán chỉ cung cấp các thông tin báo cáo về mặt số liệu, chưa có nhiều thông tin mang tính dự báo, chưa có các thông tin cho các tình huống trong SXKD khác nhau có liên quan đến HTK với các phương án quản trị HTK khác nhau để nhà quản trị xem xét, ra quyết định. Các thông tin do bộ phận kế toán cung cấp đều biểu hiện dưới dạng số liệu, chưa thể hiện dưới dạng mô hình toán học, đồ thị, biểu đồ... để Ban Giám đốc có thể xử lý tình huống quản trị nhanh chóng.

Nguồn: Phỏng vấn Ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc CTLN Hàm Yên

* Kế toán quản trị nguồn nhân lực

Kết quả điều tra thực tế cho thấy, hằng năm, các CTLN có thực hiện lập báo cáo cung cấp thông tin về KTQT nguồn nhân lực, tuy nhiên, báo cáo này chỉ phục vụ cho mục đích công khai quỹ lương và thu nhập của người lao động. Các công ty chưa tổ chức báo cáo thông tin KTQT nguồn nhân lực để phục vụ nhu cầu quản trị.

Minh họa Báo cáo quỹ tiền lương tại Phụ lục 2.2

Kết quả phỏng vấn sâu lãnh đạo doanh nghiệp cũng cho thấy, CTLN chỉ tập trung báo cáo thông tin về nguồn nhân lực theo phương diện KTQT phục vụ cho mục đích báo cáo công khai và nộp lên cấp có thẩm quyền quản lý.

Hộp 2. 13. Công khai quỹ tiền lương, tiền thưởng theo quy định


Đầu năm tài chính, theo quy định, công ty thực hiện công khai quỹ tiền lương, tiền thưởng về các nội dung: chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách phân phối tiền lương, tiền thưởng. Báo cáo được chi tiết theo nội dung kết quả thực hiện quỹ tiền lương, tiền thưởng của năm trước và kế hoạch thực hiện quỹ tiền lương, tiền thưởng của năm báo cáo.

Nguồn: Phỏng vấn Ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc CTLN Hàm Yên

Như vậy, việc lập báo cáo thông tin KTQT nguồn nhân lực tại các CTLN hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu quản trị, chưa cung cấp được thông tin tối đa cho nhà quản trị ra quyết định về quản trị nguồn nhân lực nói riêng và lựa chọn phương án kinh doanh nói chung.

* Kế toán quản trị tài sản cố định

Kết quả khảo sát (Phụ lục 1E) cho thấy 100% các CTLN đều sử dụng các báo cáo trong hệ thống KTTC để báo cáo tình hình KTQT TSCĐ phục vụ cho chức năng kiểm soát. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy, các thông tin về TSCĐ do KTQT cung cấp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của nhà quản trị.

Hộp 2. 14. KTQT chưa đáp ứng nhu cầu thông tin của NQT về TSCĐ


Mặc dù trước khi đưa ra quyết định đầu tư TSCĐ, chúng tôi có căn cứ vào thông tin do các bộ phận cung cấp để ra quyết định nhưng vẫn chưa có sự liên hệ mật thiết và phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban này, do đó, thông tin được cung cấp chưa đáp ứng cao cho yêu cầu quản trị

Nguồn: Phỏng vấn Ông Nguyễn Hồng Thái, Giám đốc CTLN Sơn Dương

Hầu hết các nhà quản trị khi đưa các quyết định liên quan đến TSCĐ bao gồm: đầu tư, sử dụng, khấu hao, sửa chữa và thải loại đều căn cứ vào các thông tin từ kế hoạch SXKD của công ty, khả năng và tiềm lực kinh tế của đơn vị, mục tiêu và chính sách của công ty trong từng thời kỳ....

(*) Cung cấp thông tin kế toán quản trị về chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh

Theo kết quả khảo sát (Phụ lục 1E), 66,7% ý kiến trả lời các CTLN trên địa bàn tỉnh có lập Báo cáo KTQT chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh, 33,3% ý kiến trả lời công ty không lập báo cáo này. Theo tìm hiểu thực tế, các CTLN thực hiện việc lập Báo cáo KTQT chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh không phục vụ mục đích quản trị doanh nghiệp mà phục vụ mục đích báo cáo theo quy định của Nhà nước, các CTLN còn lại không lập báo cáo này mà chỉ thực hiện lập báo cáo tài chính theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính.

Các CTLN lập Báo cáo KTQT chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh dưới dạng Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trên báo cáo này cũng chỉ thể hiện chỉ tiêu về trồng rừng, doanh thu, lợi nhuận, đầu tư phát triển và có sự so sánh với kế hoạch nhưng chưa báo cáo về chỉ tiêu chi phí.

Minh họa Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh tại Phụ lục 2.9

Ngoài ra, các công ty TNHH trực thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam và UBND tỉnh Tuyên Quang còn lập thêm Báo cáo đánh giá tình hình tài chính, trên báo cáo này đã thể hiện rõ chỉ tiêu chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh nhưng cũng chỉ dừng ở việc so sánh kết quả thực hiện với kế hoạch.

Minh họa Báo cáo đánh giá tình hình tài chính 6 tháng đầu năm 2021 tại Phụ lục 2.10

Các chỉ tiêu chủ yếu của báo cáo này bao gồm: sản lượng, doanh thu, giá vốn, chi phí ngoài sản xuất, lợi nhuận, thuế, các khoản phải nộp khác và các quỹ.

Nhìn chung, báo cáo KTQT chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh được lập tại các CTLN hiện nay để phục vụ cho việc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền quản lý và với chính quyền địa phương theo quy định, do các CTLN này đều chịu sự chỉ đạo và kiểm soát từ TCT Giấy Việt Nam hoặc từ UBND tỉnh.

(*) Đối với công tác giao khoán sản xuất

Kết quả khảo sát (Phụ lục 1E) cho thấy 100% ý kiến trả lời công ty chưa thực hiện phân tích, đánh giá thông tin thực hiện về hoạt động giao khoán. Thực tế, các CTLN chỉ thực hiện tổng hợp số liệu báo cáo kết quả giao khoán trong năm theo đối tượng nhận khoán và theo từng loại cây trồng.

Minh họa Báo cáo kết quả giao khoán trồng và chăm sóc rừng tại Phụ lục 2.52

Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế, các đội sản xuất được công ty phân cấp tự chủ và kiểm soát về các khoản chi phí, tự chịu trách nhiệm về tình hình sản xuất nên định kỳ, các đội sản xuất vẫn lập các Báo cáo tổng kết cuối năm về tình hình hoạt động

theo kế hoạch được giao, tuy nhiên, thông tin được cung cấp trong các báo cáo này là kết quả thực hiện chỉ tiêu, không có thông tin so sánh, biến động và các thông tin phân tích nguyên nhân dẫn đến biến động.

Minh họa Báo cáo tổng kết công tác năm của Đội sản xuất tại Phụ lục 2.47

Ngoài ra, trên cơ sở các hợp đồng giao khoán, các đội sản xuất sẽ tiến hành tập hợp thành bộ hồ sơ giao khoán để gửi về trụ sở CTLN, từ đó, kế toán sẽ tiến hành tổng hợp diện tích rừng trồng theo các năm và theo dõi theo các đội sản xuất về mặt số liệu và giá trị phát sinh tăng, phát sinh giảm, còn lại cuối kỳ.

Minh họa Bảng tổng hợp rừng theo các năm trồng tại Phụ lục 2.46

Theo kết quả điều tra thực tế, hiện nay, các CTLN trên địa bàn tỉnh đã sơ bộ hình thành trung tâm trách nhiệm theo 3 dạng: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu và trung tâm lợi nhuận. Khái quát tổ chức của các CTLN theo trung tâm trách nhiệm như sau:

Các trung tâm trách nhiệm được phân cấp quản lý và phân công nhiệm vụ rõ ràng, điều được thể hiện thông qua Điều lệ tổ chức hoạt động của công ty. Mỗi trung tâm trách nhiệm đều có nhà quản trị có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuyên trách. Nhà quản trị cấp cao sẽ sử dụng thông tin của kế toán trách nhiệm để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng bộ phận hoặc từng trung tâm trách nhiệm, đánh giá kết quả quản lý của các nhà quản lý bộ phận và kịp thời đưa ra các quyết định khen thưởng, kỷ luật phù hợp.

Trung tâm lợi nhuận BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY

Trách nhiệm: Bảo toàn, phát triển vốn và tối đa hóa lợi nhuận

Trung tâm chi phí

Trung tâm doanh thu

Đội sản xuất Trách nhiệm : Sử dụng hiệu quả tiết kiệm CPSX

P.HCQT và P.KHTV

Trách nhiệm: Sử dụng hiệu quả tiết kiệm CPQL

P.KHKT

Trách nhiệm: Tối đa hóa doanh thu


Sơ đồ 2. 1. Tổ chức công ty lâm nghiệp theo trung tâm trách nhiệm

Nguồn: Tổng hợp, điều tra của tác giả

Việc kiểm soát và đánh giá hoạt động thông qua các trung tâm trách nhiệm được các công ty thực hiện định kỳ hằng năm bằng thước đo tài chính là chủ yếu, tức đánh giá thông qua việc phân tích giữa kết quả thực hiện so với kế hoạch giao chỉ tiêu đã được phê duyệt. Tuy nhiên, các CTLN chỉ đặt trọng tâm vào việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các trung tâm chi phí tiêu chuẩn (các đội sản xuất) hơn là đánh giá hiệu quả của các trung tâm chi phí tuỳ ý (các bộ phận, phòng ban chức năng). Điều này không tạo động lực cho kế toán phải thực hiện phân tích chênh lệch các khoản mục chi phí ngoài sản xuất. Ngoài ra, các CTLN cũng không có đầy đủ dữ liệu nội bộ về các tiêu chuẩn định mức chi phí ngoài sản xuất, do đó, các công ty không có kế hoạch hay dự toán cho các khoản chi phí này nên không có cơ sở để phân tích và so sánh.

Trên cơ sở kết quả thực hiện chỉ tiêu kế hoạch được giao, căn cứ quy định chấm điểm để xếp loại và căn cứ vào chỉ tiêu giao kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm, các CTLN tiến hành đánh giá, xếp loại các đội sản xuất.

Minh họa Tiêu chí xếp loại đội sản xuất tại Phụ lục 2.50 Minh họa Quyết định xếp loại đội sản xuất tại Phụ lục 2.51

Các CTLN không có đội sản xuất, không thực hiện việc đánh giá kết quả hoạt động giao khoán với hộ dân. Các công ty này chỉ đánh giá hoạt động theo hệ thống báo cáo tài chính được thực hiện theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính.

2.3.2. Thực trạng kế toán quản trị gắn với việc ra quyết định của nhà quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

2.3.2.1. Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận (C-V-P)

Kết quả khảo sát tại Phụ lục 1E cho thấy, 100% ý kiến trả lời công ty không phân loại chi phí thành biến phí, định phí và chi phí hỗn hợp, tức phân loại chi phí theo mức độ hoạt động, nên các CTLN cũng không tiến hành phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận (phân tích C - V - P), không thực hiện xác định điểm hòa vốn trong quá trình lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, khi nhu cầu thị trường hay quy mô khai thác thay đổi, nhà quản trị trong các CTLN sẽ gặp khó khăn trong việc điều tiết chi phí sản xuất kinh doanh.

2.3.2.2. Phân tích thông tin thích hợp cho việc ra quyết định

Khi phải ra quyết định trong các tình huống cần sự lựa chọn, các CTLN tuy không tiến hành phân tích và đánh giá chi phí, doanh thu của từng phương án, tuy nhiên, các công ty đều đã quyết định trên tình huống tiền lệ, tức đã xác định được chi phí và doanh thu đạt được khi quyết định phương án lựa chọn. Để tìm hiểu về việc phân tích thông tin thích hợp tại các CTLN, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu nhà quản trị công ty như sau:

Hộp 2. 15. Việc phân tích thông tin thích hợp chưa có hệ thống


Khi giải quyết các tình huống phức tạp cần đưa ra quyết định lựa chọn, chúng tôi căn cứ vào tiền lệ đã xảy ra và tình hình thực tế để xử lý, không tổ chức phân tích và đánh giá thông tin chi phí hay doanh thu của từng phương án. Ví dụ: Trên cơ sở đề nghị của hộ dân, công ty lựa chọn việc thanh lý hợp đồng khoán trước thời hạn để tiến hành khai thác, khi xem xét thấy hộ dân không có điều kiện để tiếp tục thực hiện theo hợp đồng khoán, công ty nhất trí cho thanh lý trước hạn và không phạt vi phạm hợp đồng, việc thanh lý cũng không làm ảnh hưởng đến lợi ích của cả hai bên.

Nguồn: Phỏng vấn Ông Trần Xuân Quảng, Giám đốc CTLN Yên Sơn

Do đó, có thể khẳng định, nhà quản trị luôn cần đầy đủ thông tin để ra quyết định trong bất cứ tình huống lựa chọn nào, các thông tin cung cấp cho nhà quản trị trong các trường hợp này thực chất đều có nguồn gốc từ kỹ thuật phân tích thông tin thích hợp, tuy nhiên, việc phân tích thông tin thích hợp chưa được tổ chức một cách có hệ thống và thường xuyên.

Minh họa về việc thanh lý hợp đồng khoán trồng rừng trước thời hạn với hộ dân tại Phụ lục 2.53

2.4. Đánh giá thực trạng công tác kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

2.4.1. Kết quả đạt được của công tác kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Thứ nhất, công tác phân loại chi phí tại các CTLN đã đáp ứng được yêu cầu của việc lập Báo cáo tài chính theo quy định và lập dự toán hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, các CTLN đã xây dựng được hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật cơ bản, chi tiết phục vụ cho sản xuất và công tác lập dự toán. Đặc biệt, đối với công tác khoán sản xuất, các CTLN cũng đã xây dựng được hệ thống định mức khoán khoa học, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh.

Hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật đều được đưa vào áp dụng trong thực tế sản xuất. Định mức được xây dựng dựa trên cơ sở quy định của Nhà nước, kinh nghiệm của nhà quản trị, kết quả hoạt động của năm liền kề và được điều chỉnh phù hợp với điều kiện sản xuất cũng như tình hình SXKD của từng công ty. Điều này rất thuận lợi trong việc điều chỉnh, so sánh, phân tích để có thể đánh giá hiệu quả của việc thực hiện theo định mức cũ, từ đó, xây dựng được hệ thống định mức mới tốt hơn, giúp công ty kiểm soát tốt được chi phí.

Thứ ba, các CTLN đã xây dựng được hệ thống kế hoạch và dự toán cơ bản như: kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch cung ứng vật tư, dự toán quỹ lương, dự toán xây dựng đường băng cản lửa, kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, dự toán trồng rừng, khai thác, dự toán ngân sách năm. Các kế hoạch và dự toán đều được lập cho từng năm theo cơ sở thực tế hoạt động và kinh nghiệm của nhà quản trị, từ đó, giúp nhà quản trị bám sát được mục tiêu của công ty. Mặt khác, hệ thống kế hoạch và dự toán cũng là căn cứ để nhà quản trị trong CTLN có thể kiểm soát được việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch thuộc cấp quản lý và chịu trách nhiệm.

Điều này cho thấy, việc xây dựng kế hoạch và dự toán đã được các CTLN quan tâm, nhà quản trị CTLN đã có sự chú ý nhất định đến hoạt động KTQT chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh. Mặt khác, việc xây dựng dự toán được thực hiện theo từng cấp từ cao xuống thấp (cấp trên giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp dưới tiến hành lập dự toán) là cơ sở để thực hiện hoạt động SXKD và phát huy tối đa nguồn lực hiện có của công ty.

Thứ tư, công tác xử lý, phân tích thông tin thực hiện đã đáp ứng được phần nào thông tin cơ bản phục vụ cho việc xây dựng một số báo cáo kiểm soát, đánh giá. Việc thu nhận và xử lý thông tin thực hiện đều căn cứ vào chứng từ kế toán,

tài khoản kế toán, sổ sách kế toán và báo cáo kế toán của hệ thống KTTC. Mẫu chứng từ kế toán đều tuân thủ theo đúng hướng dẫn chung của Bộ Tài chính và của Bộ Nông nghiệp & PTNT (đối với một số mẫu chứng từ thuộc lĩnh vực lâm nghiệp). Việc KTQT làm việc căn cứ vào hệ thống KTTC giúp đảm bảo cho hoạt động KTQT phù hợp với đặc điểm hoạt động SXKD và đối tượng tập hợp chi phí trong CTLN. Ngoài ra, các tài khoản kế toán, sổ kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh đều được chi tiết nên rất thuận lợi trong việc theo dõi, tổng hợp thông tin khi nó phát sinh, từ đó, tạo điều kiện cho việc xử lý và cung cấp thông tin cho nhà quản trị.

Các CTLN trên địa bàn tỉnh đã thực hiện phân tích thông tin bằng cách so sánh chúng với dự toán hay kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm phục vụ cho việc đánh giá kết quả thực hiện. Công tác này đã góp phần giúp nhà quản trị luôn chủ động trong công tác kiểm soát chi phí, quản lý doanh thu, có thể đưa ra những phương án điều chỉnh kịp thời và mang lại hiệu quả cao. Như vậy, các CTLN đã bước đầu quan tâm đến việc phân tích thông tin thực hiện, làm cơ sở cho nhà quản trị ra quyết định kiểm soát và quản lý.

Thứ năm, KTQT đã cung cấp được một số báo cáo phân tích chênh lệch giữa kế hoạch và thực hiện, từ đó, đánh giá được tình hình tổ chức thực hiện và kiểm soát thực hiện kế hoạch của công ty cũng như các đội sản xuất.

Thứ sáu, đối với các đội sản xuất, các công ty đều đã tổ chức thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động trên cơ sở kết quả thực hiện kế hoạch chỉ tiêu được giao và tình hình thực tế tại công ty.

2.4.2. Hạn chế của công tác kế toán quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

* Đối với kế toán quản trị phục vụ chức năng kiểm soát, đánh giá của nhà quản trị trong các công ty lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Thứ nhất, các CTLN chưa tổ chức xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phục vụ chức năng kiểm soát, đánh giá của nhà quản trị. Việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu này sẽ giúp cụ thể hóa nhu cầu quản trị của các cấp quản trị, từ đó, kế toán quản trị sẽ có căn cứ để tổ chức thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin chính xác và phù hợp. Việc phân loại chi phí trong các CTLN chỉ phục vụ cho công tác KTTC mà chưa hướng đến việc phục vụ cho công tác KTQT. Các CTLN đều phân loại chi phí theo yếu tố và chức năng hoạt động mà chưa tiến hành phân loại chi phí theo mức độ hoạt động, từ đó, khiến cho việc quản lý sự biến động chi phí gặp nhiều khó khăn, mặt khác, trong trường hợp nhận thấy chi phí tăng lên sẽ khó xác định được việc tăng chi phí là do bộ phận nào gây ra để có định hướng giải quyết, tác động kịp thời. Cách phân loại chi phí theo mức độ hoạt động được chia thành: định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch chi phí, kiểm soát chi phí và chủ động điều tiết chi phí, ra quyết định kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả.

Thứ hai, các CTLN chưa xây dựng hoặc có xây dựng nhưng chưa đầy đủ đối với một số loại định mức kinh tế - kỹ thuật như: định mức hàng tồn kho, định mức sử dụng TSCĐ, định mức chi phí sản xuất chung. Do đó, việc tính toán, phân tích định mức liên quan đến thông tin thực hiện chỉ căn cứ trên kinh nghiệm thực tế, thiếu khoa học và không cập nhật phù hợp điều kiện sản xuất thực tế.

Thứ ba, công tác lập kế hoạch và dự toán tuy đã được các CTLN quan tâm nhưng thực hiện chưa đầy đủ, còn thiếu nhiều các dự toán cũng như các nội dung dự toán còn đơn giản, dẫn tới nhà quản trị các cấp thiếu các thông tin quan trọng để đưa ra quyết định hay định hướng trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp. Một số dự toán đã thực hiện so sánh, đối chiếu thông tin thực hiện và kế hoạch nhưng chưa có sự tính toán, phân tích sự biến động và các yếu tố ảnh hưởng. Chính vì vậy, nhà quản trị trong các CTLN không được cung cấp đầy đủ thông tin, dữ liệu để kiểm soát, đánh giá kết quả hoạt động.

Đối với công tác khoán sản xuất, hiện nay, các CTLN đang lập dự toán và định mức chi phí sản xuất đi kèm với nhau, điều này làm ảnh hưởng đến việc theo dõi và quản lý định mức khoán cũng như dự toán chi phí. Bên cạnh đó, dự toán chi phí khoán

Xem tất cả 203 trang.

Ngày đăng: 14/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí