Thiết Lập Hệ Thống Kiểm Soát Và Quản Lý Rủi Ro Trên Toàn Hệ


không đủ định mức cần thiết không, máy móc đã sử dụng hết công suất chưa... Ngoài ra, theo định kỳ cần phân tích các báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng tháng, quý xem có dấu hiệu bất ổn trong tình hình tài chính của người vay hay không.

Đối với các nền kinh tế phát triển các doanh nghiệp có thể được đánh giá hằng ngày thông qua sự tăng giảm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng ở Việt Nam, khi mà thị trường chứng khoán mới bắt đầu khởi sắc, số doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán còn ít, thì dấu hiệu nhận biết khoản vay có thể gặp vấn đề chủ yếu là sự gia nợ ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, giảm sút nguồn tiền mặt...

Thông qua việc theo dõi vốn vay, cán bộ tín dụng cần lưu ý khách hàng biết kỳ hạn trả nợ và đôn đốc họ thu xếp ngân quỹ để trả nợ Ngân hàng đúng thời gian thoả thuận. Nếu khách hàng thực sự gặp những khó khăn do những nguyên nhân bất khả kháng nên không thể trả nợ đúng hạn thì cán bộ tín dụng sẽ xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở đơn xin điều chỉnh kỳ hạn nợ của khách hàng. Còn trong trường hợp những khó khăn mà khách hàng gặp phải do nguyên nhân là sự yếu kém của chính họ thì cán bộ cần cùng nghiên cứu và đưa ra những gợi ý, những giải pháp tháo gỡ khăn cho khách hàng, còn nếu khoản vay đã được xác định là “có vấn đề” dù đang còn trong hạn, cán bộ tín dụng cần chuyển khoản vay sang bộ phận xử lý rủi ro cao để có phương án điều chỉnh khoản vay sang bộ phận xử lý rủi ro cao để có phương án điều chỉnh khoản vay về trạng thái bình thường trước khi hết hạn.

Việc kiểm tra, giám sát như vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ có kỹ năng phân tích tài chính thông thường mà còn phải có những am hiểu nhất định về lĩnh vực cho vay và đặc biệt, phải có “trực giác nhạy bén” có thể phát hiện ngay những bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp và lý giải đúng những hiện tượng đó. Muốn vậy, NHNT phải chú trọng bồi dưỡng kiến thức


thực tế cho cán bộ bằng cách tiếp tục đào tạo cán bộ sau khi tuyển dụng, thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, thị trường, các chủ trương chính sách của Ngân hàng cũng như của lĩnh vực có mức dư nợ cho vay lớn, thường xuyên tổ chức các buổi giới thiệu kinh nghiệm của những cán bộ điển hình trong ngành, và nếu như điều kiện cho phép, NHNT nên có kế hoạch đưa cán bộ đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở một số nước tiên tiến...

Bên cạnh đó, NHNT cũng nên lựa chọn các cán bộ có năng lực, có sở trường vào làm việc ở bộ phận xử lí rủi ro cao để tập trung thời gian cũng như năng lực của họ vào việc điều chỉnh các khoản vay tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, bởi trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, ngay cả các khoản vay còn trong hạn cũng có nguy cơ rủi ro tiềm ẩn rất lớn.

3.2.7. Thiết lập hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro trên toàn hệ

thống

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Những Ngân hàng có quy mô và phạm vi hoạt động càng lớn thì số

lượng cũng như mức độ của rủi ro càng đa dạng. Để đảm bảo an toàn, các Ngân hàng này cần xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro toàn hệ thống.

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - 10

NHNT cần nâng cao kỹ năng quản lý rủi ro bằng cách xây dựng các Module quản lý rủi ro. Công việc này được tiến hành trên cơ sở phân loại rủi ro theo thứ tự ưu tiền sau: rủi ro tín dụng; rủi ro hối đoái; rủi ro thanh khoản và các hoạt động ngoại bảng; các loại rủi ro khác. Trong từng Module quản lý rủi ro kể trên lại thiết kế các Module quản lý rủi ro chính sách, thị trường, cạnh tranh...

Sau khi rủi ro hệ thống đã được phân loại, với từng rủi ro cụ thể, cần có những chiến lược quản lý và kiểm soát riêng. Thông thường công tác quản lý rủi ro bao gồm 4 bước:

Bước 1: Xác định rủi ro

Ngân hàng cần nhận biết được trong hoạt động kinh doanh hàng ngày


tiềm ẩn những rủi ro gì, liệu có thể kiểm soát được những rủi ro đó không.

Bước 2: Định lượng rủi ro

Ngân hàng cần tính toán mức rủi ro bằng những con số cụ thể. Để định lượng rủi ro, Ngân hàng có thể sử dụng các mô hình toán học như: mô hình sản xuất tuyến tính, mô hình phân biệt tuyến tính, mô hình Logit, Probit, mô hình VAR (Value-at-risk), mô hình SAR (Shortfall-at-risk)...

Bước 3: Điều tiết rủi ro

Sau khi đã nhận biết và định lượng rủi ro, Ngân hàng sẽ phân tích hiện trạng và đưa ra các biện pháp chủ động để điều tiết, hạn chế rủi ro. Tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại của rủi ro và khả năng rủi ro phát sinh mà cần áp dụng biện pháp xử lý ngay, biện pháp phòng ngừa... Các biện pháp này phải tính toán sao cho hiệu quả thu được xứng đáng với các chi phí bỏ ra.

Bước 4: Giám sát rủi ro

Ngân hàng cần kiểm tra một cách thường xuyên để phát hiện sớm rủi ro, luôn theo dõi và nắm bắt được rủi ro. Công việc giám sát sẽ cho thấy các hoạt động điều tiết rủi ro có hiệu quả không, đồng thời có thể phát hiện ra các loại rủi ro mới hoặc những rủi ro chưa được kiểm soát trước đó.

Việc quản lý rủi ro nên được kết hợp chặt chẽ với các hoạt động khác của Ngân hàng như các bộ phận tác nghiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ… Thiết lập một hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro có hiệu quả sẽ là giải pháp tổng thể để nâng cao năng lực điều hành, giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng.

3.2.8. Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng

Việc hiện đại hoá công nghệ là hết sức cần thiết trong hoạt động tín dụng bởi nó giúp cho việc thu thập thông tin để thẩm định và giám sát khách hàng được tốt hơn. Hơn nữa, quá trình sắp xếp lại mô hình tổ chức, tăng cường các kỹ năng quản lý rủi ro... Muốn thành công cần có sự trợ giúp rất lớn của công nghệ.

Trong thời gian tới, NHNT nên triển khai hệ thống Ngân hàng bán lẻ ở


tất cả các chi nhánh. Nhờ đó, các thông số về hoạt động của các doanh nghiệp có liên quan đến NHNT VN có thể được phản ánh tức thời tại bất kỳ đơn vị nào. Nhờ đó, cán bộ tín dụng có thể theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng tốt hơn.

Để phục vụ cho việc thẩm định các dự án, NHNT nên trang bị thêm nhiều phần mềm hiện đại để việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế nhanh chóng và chính xác hơn, ví dụ như phần mềm Crystal ball, rất có hiệu quả ứng dụng trong phân tích mô phỏng, với phần mềm này, cán bộ tín dụng có thể xác định được sự thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả (NPV, IRR, NFV) khi có sự thay đổi đồng thời của các chỉ tiêu nhân tố chứ không phải chỉ có sự thay đổi của một nhân tố như trong phương pháp phân tích độ nhạy thông thường.

Công nghệ nhằm phục vụ cho công tác thu nhập, xử lý và lưu trữ thông tin tín dụng cũng cần được hiện đại hóa hơn nữa, để làm tăng số lượng cũng như độ chính xác, cập nhật của thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng.

3.2.9. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ

Tín dụng là lĩnh vực hoạt động chứa đựng mức độ rủi ro cao nhất. Tín dụng trung dài hạn lại càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Để kịp thời phát hiện và ngăn ngừa những tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng trung dài hạn, NHNT cần phải thiết lập được một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ một cách đầy đủ và hiệu quả.

Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ có thể giúp Ngân hàng phát hiện ra các dấu hiệu rủi ro phát sinh trong từng nghiệp vụ riêng lẻ để có biện pháp xứ lý, khắc phục kịp thời, đồng thời nó cũng có khả năng dự báo được các rủi ro trong tương lai, giúp ban lãnh đạo quản lý tốt các rủi ro trong toàn hệ thống. Song để kiểm tra, kiểm toán nội bộ có thể phát huy được hiệu quả của nó, việc kiểm toán cần định hướng vào rủi ro, cụ thể là:

Xây dựng kế hoach kiểm toán và thực hiện kiểm toán cần định hướng theo rủi ro


Những hoạt động trọng yếu có nhiều rủi ro như hoạt động tín dụng phải được giám sát liên tục. Chu kỳ kiểm toán cũng không đều đặn để các đơn vị kiểm toán không thể đối phó được với kế hoạch kiểm toán. Ngoài ra, khi sai phạm đã trở nên rõ ràng hoặc khi cần những thông tin nhất định, cần đảm bảo có thể tiến hành kiểm toán đặc biệt (ngoài kế hoạch) bất cứ lúc nào.

NHNT nên nhanh chóng vận dụng phương thức kiểm toán hệ thống hay kiểm toán tổng thể vào thực tiễn.

Đây là phương thức kiểm toán mới, rất khoa học. Kiểm toán hệ thống là hình thức kiểm soát trước các quy trình thực hiện nên có thể dự báo những rủi ro trong tương lai. Nhờ phương thức kiểm toán này, người lãnh đạo Ngân hàng sẽ biết được hiện nay Ngân hàng đang phải đối mặt với những rủi ro nào, các biện pháp hạn chế rủi ro đã được áp dụng như thế nào, có hữu hiệu không... Kiểm toán nội bộ cũng sẽ quyết định có thực hiện biện pháp khắc phục khác hay không sau khi tính đến mặt hiệu quả của phương pháp khắc phục. Kiểm toán hệ thống là hình thức kiểm tra trước, xem xét cả quy trình cũng như tính hiệu lực của quy trình nên có thể đưa ra riêng lẻ không thể thực hiện được. Việc áp dụng phương thức này không những nâng cao hiệu quả của kiểm toán mà còn giúp Ngân hàng tiết kiệm chi phí và thời gian hơn so với kiểm toán riêng lẻ.

Thông tin là yếu tố hết sức cần thiết để tạo một cơ chế kiểm soát nội bộ có hiệu quả, do đó phải có tổ chức hệ thống thông tin thống nhất cập nhật, chính xác. Hệ thống thông tin phải đảm bảo an toàn, có các kênh thông tin liên lạc tốt, bao gồm việc truyền lên cấp trên, cấp dưới và theo chiều ngang giữa các đơn vị.

Không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán viên: chất lượng kiểm toán phụ thuộc chủ yếu vào trình độ của kiểm toán viên, bởi vậy, kiểm toán viên nội bộ phải được đào tạo tốt, đảm bảo có năng lực chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm và ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình.


3.2.10. Phân tán rủi ro thông qua thị trường bán nợ và các công cụ dẫn xuất tín dụng

Bên cạnh các công cụ truyền thống để hạn chế rủi ro như đã đề cập ở trên, NHNT cũng có thể xem xét việc sử dụng bán nợ và các công cụ dẫn xuất tín dụng như hoán đổi tín dụng, quyền chọn tín dụng, các chứng chỉ liên quan đến tín dụng... để phân tán rủi ro trong tương lai.

Các công cụ này có thể giúp NHNT tránh được danh mục đầu tư quá tập trung, có thể gây nên rủi ro danh mục, hoặc giúp Ngân hàng tránh được rủi ro của từng khoản cho vay cụ thể khi Ngân hàng nghi ngờ chất lượng của khoản cho vay này. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường giao dịch các hợp đồng tài chính còn chưa phát triển nên việc tham gia các giao dịch dẫn xuất tín dụng hầu như chưa có. Hệ thống tài chính của nước ta chưa có uy tín trên thế giới, cộng với việc các cơ chế, quy chế về vấn đề bán nợ cũng thiếu cụ thể, rõ ràng nên việc bán nợ là rất khó khăn. Việc bán hay thực hiện các hợp đồng tài chính để phòng ngừa rủi ro tín dụng là rất cần thiết đối với các khoản đầu tư trung dài hạn. Hi vọng trong tương lai, các khó khăn trên sẽ được tháo gỡ để NHNT có thể sử dụng công thức này như một phương thức hiệu quả để phòng ngừa và hạn chế rủi ro.

3.3. Một số kiến nghị

Tín dụng trung dài hạn tiểm ẩn rất nhiều rủi ro. Hậu quả của rủi ro gây ra không chỉ thiệt hại cho bản thân Ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến người gửi tiền, đến sự an toàn của toàn hệ thống Ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Việc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không phải chỉ là trách nhiệm của riêng ngành Ngân hàng mà còn cần sự phối hợp của chính phủ và các cán bộ ngành có liên quan. Xin có một số kiến nghị sau:

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các bộ ngành liên quan

- Chính phủ cần tăng cường quản lý các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đẩy mạnh việc tổ chức lại doanh


nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá, có giải pháp giúp đỡ các doanh nghiệp yếu kém thoát khỏi khó khăn hoặc cần phá sản doanh nghiệp khi thấy cần thiết. Chỉ khi đội ngũ khách hàng của Ngân hàng có tình hình hoạt động tốt, các Ngân hàng mới có thể yên tâm và mạnh dạn đầu tư.

- Có biện pháp tích cực buộc tất cả các doanh nghiệp phải thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê và thực hiện kiểm toán bắt buộc hàng năm. Thực hiện được điều này, các NHTM mới có thể yên tâm về tình hình tài chính mà doanh nghiệp cung cấp.

- Thành lập các tổ chức xếp hạng tín dụng có uy tín để phân loại các doanh nghiệp theo mức độ an toàn tín dụng, giúp đỡ các Ngân hàng trong khâu thẩm định, quyết định cho vay và giám sát tín dụng.

- Phát triển các hoạt động bảo hiểm để chia sẻ rủi ro với các Ngân hàng như bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tín dụng...

- Uỷ ban nhân dân và sở địa chính các tỉnh thành phố sớm xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất cho các tổ chức, cá nhân có vay và thế chấp nhà đất tại các NHTM để đảm bảo về mặt pháp luật cho nguồn thu nợ thứ hai của Ngân hàng.

- Các cơ quan bảo vệ và thi hành pháp luật cần đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ án liên quan đến hoạt động Ngân hàng, tránh kéo dài dây dưa gây đọng vốn cho Ngân hàng. Cơ quan thi hành án cần thực hiện nghiêm túc quy định về cưỡng chế buộc người vay thi hành án.

- Chính phủ cần tạo điều kiện về mặt cơ chế chính sách cũng như tài chính để trung tâm bán đấu giá tài sản hoạt động tốt hơn nữa. Trung tâm bán đấu giá tài sản cần phối hợp với sở địa chính làm nhanh các thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với các tài sản đã được bán đấu giá để tạo điều kiện dễ dàng cho người mua.

- Nhà nước cần có sự thể chế và các quy định pháp lý rõ ràng cho hoạt động giao dịch các công cụ dẫn xuất tín dụng và bán nợ ở Việt Nam nhằm


giúp các NHTM bảo hiểm cho hoạt động tín dụng của mình.

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

NHNN cần có quy định cụ thể, biện pháp quản lý, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Các NHTM Việt Nam cũng như chi nhánh NHTM nước ngoài đều phải tuân thủ theo một cơ chế tín dụng thống nhất của NHNN, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh, giành giật khách hàng, gây rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng.

Hệ thống văn bản pháp quy về hoạt động Ngân hàng hiện nay còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, chồng chéo, gây khó khăn cho các NHTM. NHNN cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan chỉnh sửa, bổ sung các văn bản cần thiết để các NHTM hoạt động an toàn hơn.

Trung tâm tín dụng CIC của NHNN cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác. Trung tâm CIC cần kết hợp chặt chẽ với các NHTM hơn nữa để khai thác triệt để nguồn thông tin về khách hàng. Như vậy, các NHTM mới có thể có đủ các thông tin để quyết định cho vay và thu nợ chính xác.

NHNN cần tăng cường hơn nữa việc kiểm soát các NHTM thông qua hình thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. NHNN cần nhận xét, đánh giá hoạt động kiểm toán nội bộ của NHTM đối với các lĩnh vực có rủi ro cao. Cần ban hành một văn bản trong đó các yêu cầu tối thiểu bắt buộc khi NHTM thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ để tiện cho việc quản lý của NHNN.

Kết Luận

Trên đây chưa phải là tất cả các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng song theo em, các giải pháp về cơ bản là phù hợp với tình hình thực tế của NHNT hiện nay.

Em tin chắc rằng việc thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên sẽ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/05/2023