Lý Luận Cơ Bản Về Thu Hút Fdi Vào Các Ngành Dịch Vụ Trong Bối Cảnh Hội Nhập Kinh Tế Khu Vực Và Tổng Quan Về Aec


nghiên cứu được lựa chọn sử dụng là phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu nhiên (RE) và mô hình tác động cố định (FE) để từ đó lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp.

5. Khung phân tích

Thực tiễn chính sách thu hút FDI trong ngành dich vụ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC


Tổng quan về khu vực dịch vụ Việt Nam

Khung phân tích của luận án được mô phỏng theo Hình 1.


Tổng quan

Xác định khoảng trống nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.

Lý luận chung về thu hút FDI vào các ngành dịch vụ và tổng quan về AEC

Thu hút FDI

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - 3

Dịch vụ và thu hút FDI vào ngành dịch vụ

Tổng quan về AEC và các hiệp định liên quan đến đầu tư vào ngành dịch vụ

Thực tiễn thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam

Tình hình thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam

Định hướng và giải pháp đấy mạnh thu hút FDI từ ASEAN

vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam


Các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh AEC

Nhóm yếu tố khung chính sách

Nhóm yếu tố kinh tế

Nhóm yếu tố tạo điều kiện thuận lợi

Lạm phát (Ổn định kinh tế)

Quy mô và tiềm năng thị trường

Chất lượng thể chế-chính trị

Độ mở thương mại

Tỷ giá hối đoái

Nguồn nhân lực

Phát triển tài chính

Cơ sở hạ tầng

Hội nhập AEC

Hình 1: Khung phân tích nghiên cứu

(Nguồn: Tác giả tự mô phỏng, 2021)


6. Những đóng góp của luận án

a. Về lý thuyết

Thứ nhất, luận án đã tổng hợp và phân tích tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về AEC và quá trình hội nhập AEC của các quốc gia thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, luận án đã hệ thống hoá các yếu tố tác động đến thu hút FDI – bao gồm các nghiên cứu về các yếu tố thu hút FDI nói chung và các yếu tố thu hút FDI vào các ngành dịch vụ nói riêng.

b. Về thực tiễn

Thứ nhất, luận án đã phân tích tình hình đầu tư của ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC và thực tiễn các cam kết trong AEC của Việt Nam liên quan đến đầu tư trong các ngành dịch vụ.

Thứ hai, luận án đã phân tích các yếu tố vĩ mô tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào Việt Nam trong các ngành dịch vụ.

Thứ ba, luận án đề xuất và luận giải một số giải pháp về mặt chính sách nhằm thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh thực thi các cam kết của AEC.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài Mục lục, Danh mục Bảng - Biểu, Danh mục các từ viết tắt, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án bao gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới thu hút FDI từ

ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC

Chương 2: Lý luận cơ bản về thu hút FDI vào các ngành dịch vụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và Tổng quan về AEC

Chương 3: Thực tiễn thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập AEC

Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam

Chương 5: Định hướng và một số giải pháp thúc đẩy thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AEC


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI THU HÚT FDI TỪ ASEAN VÀO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP AEC

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nội dung quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và trên thế giới. Các đề tài nghiên cứu liên quan đến FDI rất đa dạng, trong đó phân tích thực trạng và các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào một hoặc một nhóm các quốc gia và khu vực là nội dung được nhiều nhà nghiên cứu khai thác. Bên cạnh những nghiên cứu đề cập đến thu hút FDI từ góc độ tiếp cận tổng thể toàn bộ nền kinh tế, có rất nhiều công trình đã tập trung vào một ngành hoặc lĩnh vực cụ thể. Liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, hiện nay trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về mặt lý thuyết cũng như thực nghiệm đánh giá quá trình hội nhập của các quốc gia ASEAN trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các yếu tố thu hút FDI nói chung và FDI vào ngành dịch vụ nói riêng.

1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hội nhập của Việt Nam trong AEC

Hiện thực hoá AEC đã tạo ra một thị trường chung và kết nối nền kinh tế của các quốc gia thành viên thành một khối sản xuất, thương mại và đầu tư thống nhất. Vì tính cấp thiết cũng như vai trò to lớn của liên kết khu vực đối với sự phát triển và hội nhập của các quốc gia thành viên, AEC là một trong những chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và thực tiễn đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Các nghiên cứu cơ bản tập trung vào một số hướng sau đây:

1.1.1. Các nghiên cứu chung về tiến trình hình thành – hội nhập AEC

Nghiên cứu về tiến trình hình thành và hội nhập AEC tương đối phổ biến trong thời điểm trước năm 2015 – mốc thời gian đánh dấu việc thành lập chính thức của AEC. Các nghiên cứu này chủ yếu phân tích bối cảnh hình thành AEC và chỉ ra những tiềm năng cũng như thách thức đối với quá trình hiện thực hoá AEC.

Nhóm nội dung nghiên cứu thứ nhất tập trung mô tả các cam kết chung của AEC trong tất cả các lĩnh vực; trình bày bối cảnh, lộ trình hình thành AEC và đánh giá tác động của AEC đến các quốc gia thành viên.

Nội dung này được khai thác trong rất nhiều nghiên cứu, tiêu biểu là các báo cáo của ASEAN, ADB và nghiên cứu của các tổ chức liên quan. Với cách tiếp cận vĩ mô, bằng phương pháp chủ yếu là so sánh và tổng hợp, các báo cáo của ASEAN và The ASEAN Secretariat đã cung cấp một cách chi tiết các thông tin cơ bản về AEC, sự tham gia của các quốc gia thành viên, lộ trình thực hiện các cam kết và các thành tựu đã đạt được (The ASEAN Secretariat & World Bank, 2013). Trong khi đó, tập


hợp các nghiên cứu của ADB, Viện nghiên cứu ASEAN và Đông Á (ERIA) đã tổng kết lại quá trình hội nhập của ASEAN; cơ sở lý luận, tiến trình và những hạn chế của AEC cũng như triển vọng sau năm 2015; đánh giá giữa kỳ việc thực hiện kế hoạch chi tiết của AEC và tác động của việc thực hiện cam kết đến các quốc gia thành viên (ADB, 2013; ERIA 2012). Petri và cộng sự (2012) đã phân tích tác động của AEC đối với nền kinh tế của các nước tham gia thông qua mô hình Cân bằng Tổng thể Khả toán (Computable General Equilibrium – CGE) với các viễn cảnh khác nhau nhằm đánh giá tác động của các thành phần khác nhau trong AEC đến lợi ích kinh tế tổng thể của mỗi quốc gia thành viên. Với các kịch bản khác nhau xem xét các hình thức hội nhập kinh tế và thương mại của ASEAN với các quốc gia và khu vực khác, nghiên cứu khẳng định mục tiêu quan trọng của AEC là làm cho khu vực ASEAN trở thành một đối tác hấp dẫn, đồng thời khẳng định lợi ích này sẽ được hiện thực hoá nếu như ASEAN thực hiện ký kết các FTA bổ sung.

Tại Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã có nghiên cứu về AEC, trong đó hai nghiên cứu tiêu biểu là nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2009) và Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2015a) đã cung cấp cái nhìn toàn diện về quá trình hình thành AEC, đặc biệt là sự tham gia của Việt Nam vào AEC. Hai nghiên cứu cũng cụ thể hoá mục tiêu, biện pháp và lộ trình thực hiện AEC, tác động của hội nhập kinh tế khu vực tới tổng thể nền kinh tế ASEAN và từng nền kinh tế thành viên. Đồng thời, các tác giả đã trình bày và phân tích chi tiết từ bối cảnh quốc tế đến lộ trình và nội dung thực hiện các cam kết, cũng như thực tiễn kinh nghiệm hội nhập của một số khu vực trên thế giới khác như EU, NAFTA, MERCOSUR...và chỉ ra những cơ hội – thách thức mà AEC phải đối mặt trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động.

Nhóm nội dung nghiên cứu thứ hai tập trung tìm hiểu những thách thức của quá trình hình thành và hiện thực hoá AEC trên phạm vi tổng thể, cũng như triển vọng của AEC. Mặc dù, cách thức tiếp cận của các công trình này khác nhau, kết quả của các nghiên cứu có nhiều điểm chung trong nhận định các thách thức chính của quá trình hiện thực hoá AEC, cụ thể là (i) sự chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên; (ii) thị trường bị chia cắt nghiêm trọng; (iii) tính toán lợi ích quốc gia khác nhau của các thành viên ASEAN gây khó khăn cho tiến trình hội nhập; (iv) hạn chế về năng lực thực hiện các cam kết của các nước thành viên và (v) chủ nghĩa bảo hộ của các quốc gia vẫn mạnh và có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, các nghiên cứu điển hình trong nhóm này cũng chỉ ra được một số kết quả nổi bật khác:

Tập hợp các nghiên cứu của ADB và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á - Yusof Ishak đã chỉ ra những thách thức trong việc hình thành AEC từ nhiều khía cạnh, bao gồm các rào cản phi thuế quan, cạnh tranh và vấn đề sở hữu trí tuệ, môi trường đầu


tư, vai trò của Nhà nước, vấn đề giải quyết tranh chấp. Các chuyên gia cho rằng, triển vọng về AEC 2015 là rất khó thực hiện – tầm nhìn của ASEAN về việc tạo ra một cộng đồng kinh tế được đánh dấu bằng dòng chảy tự do của hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động có kỹ năng là quá tham vọng và khó có thể áp dụng được do những đối lập trong quan điểm chính trị và khác biệt thể chế của các quốc gia thành viên. Vì vậy, để hiện thực hoá AEC 2015, không chỉ Chính phủ các quốc gia ASEAN mà các doanh nghiệp, các tổ chức phi lợi nhuận cần thực sự nghiêm túc với kế hoạch đã đề ra (ADB & ISEAS-Yusof Ishak, 2013). Cũng cùng nhận định này, tác giả Hạ Thị Thiều Dao và Nguyễn Thị Mai (2014) cho rằng AEC khó có thể thực hiện theo đúng lộ trình. Thông qua việc tiếp cận theo hướng đánh giá khả năng xây dựng AEC dựa trên biểu đánh giá AEC (AEC scorecard), nhóm nghiên cứu nhận định nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này vẫn là do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia về mức độ mở cửa thị trường, thu nhập bình quân, cơ cấu kinh tế và một số yếu tố khác. Tác giả Hoàng Thị Thanh Nhàn và Võ Xuân Vinh (2013) cũng nhận định quá trình hình thành AEC còn phải giải quyết nhiều khó khăn, đặc biệt là do chênh lệch giữa thương mại và đầu tư ngoại khối so với nội khối. Đầu tư nội khối ASEAN hiện đóng vai trò khiêm tốn hơn nhiều so với thương mại và đầu tư với các đối tác bên ngoài. Sự phụ thuộc vào bên ngoài, theo các tác giả, dễ dẫn đến chệch hướng hội nhập và các nguồn lực khó được huy động tập trung để giải quyết đòi hỏi từ bên trong ASEAN. Vì vậy, để hiện thực hoá AEC 2015 đòi hỏi sự nghiêm túc thực hiện của tất cả các quốc gia thành viên ASEAN.

Sau khi AEC chính thức được thành lập, một số nghiên cứu đã tóm lược các hoạt động liên quan đến thực tiễn triển khai các cam kết trong AEC kể từ năm 2015. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà (2017) cho thấy ASEAN đã thông qua nhiều chính sách và biện pháp mới, tiếp tục cắt giảm thuế quan (nhưng không nhiều), thực hiện các sáng kiến như tự cấp chứng chỉ mẫu ATIGA điện tử, các giải pháp ASEAN với đầu tư – dịch vụ - thương mại (ASSIST), triển khai hệ thống quá cảnh hải quan ASEAN (ACTS), thông qua Hiệp định khung về Tạo thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh (AFAFGIT). Đối với việc triển khai ACIA, các nước thành viên tiếp tục cải cách thủ tục đầu tư, nâng cao tính minh bạch và thực hiện tự do hoá hơn nữa. Về ngành dịch vụ, sau khi ký kết thực hiện gói cam kết thứ 9 của AFAS, ASEAN cũng đang hướng tới ký kết gói thứ 10 để hoàn tất AFAS. Tuy vậy, việc xây dựng AEC cũng gặp không ít những thách thức trong việc hiện thực hoá các nội dung cam kết do sự mức độ chênh lệch về phát triển và sự khác biệt giữa các quốc gia, nội dung chương trình vẫn nặng về lý thuyết và không có kế hoạch hành động cụ thể, sự liên kết còn yếu kém. Nghiên cứu đi tới khẳng định con đường đưa ASEAN trở thành một cộng đồng kinh


tế thực sự là một mục tiêu và nhiệm vụ còn nhiều thách thức. Cùng đánh giá các cơ hội và thách thức cho AEC trong tương lại, chuỗi 10 bài nghiên cứu của ERIA (2017) đã xem xét đa dạng các vấn đề có liên quan – từ tạo thuận lợi thương mại, đến các biện pháp phi thuế quan, các ngành dịch vụ, sự kết nối, hội nhập tài chính, thực hành quản lý tốt... và tác động của bối cảnh thế giới đến quá trình xây dựng AEC. Tập hợp nghiên cứu khẳng định tất cả các vấn đề trong việc xây dựng AEC vẫn “đang trong quá trình xử lý” và các quốc gia cần nỗ lực hơn nữa nếu muốn đạt được những mục tiêu đã đề ra của AEC 2025, đồng thời đưa ra triển vọng và những khuyến nghị hỗ trợ các quốc gia ASEAN đạt được khả năng này vào năm 2025 và 2035.

Nhóm nội dung nghiên cứu thứ ba, ngoài các nghiên cứu tổng quan, nhiều tác giả đã tập trung vào các cam kết trong AEC với từng lĩnh vực cụ thể, trong đó, ngành dịch vụ cũng như hoạt động đầu tư là những hướng nghiên cứu chuyên sâu. Thực tế, các nghiên cứu trong nước liên quan đến nhóm nội dung trên còn tương đối hạn chế và hầu hết là các nghiên cứu chi tiết về trường hợp của Việt Nam. Trong khi đó, các nghiên cứu nước ngoài có tính tham khảo cao hơn, chủ yếu tập trung đánh giá mức độ cam kết và thực tế triển khai các cam kết của các quốc gia thành viên ASEAN trong ngành dịch vụ tới thời điểm nghiên cứu, chỉ ra các thành tựu và hạn chế, đồng thời đề xuất các giải pháp thúc đẩy quá trình mở cửa dịch vụ thông qua việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

Báo cáo Hội nhập ngành dịch vụ của ASEAN là một nghiên cứu tổng thể cung cấp cái nhìn tổng quan về lợi ích của mở cửa thị trường dịch vụ trong ASEAN, các tiến trình thể chế trong ASEAN về hội nhập dịch vụ, thực trạng đàm phán mở cửa ngành dịch vụ và các sáng kiến được thực hiện để tiến tới hội nhập dịch vụ tại ASEAN. Báo cáo khẳng định, hội nhập dịch vụ trong ASEAN còn đang gặp rất nhiều thách thức. Tuy nhiên, với tốc độ hội nhập nhanh chóng của các nền kinh tế ASEAN vào hệ thống thương mại toàn cầu và tốc độ đàm phán các FTA ngày càng mạnh mẽ, ASEAN hướng tới mức độ hội nhập và hợp tác cao hơn trong ngành dịch vụ giữa các quốc gia thành viên. Để đạt được mục tiêu của AEC 2015 liên quan đến hiện thực hoá hội nhập ASEAN trong ngành dịch vụ, hợp tác giữa tất cả các bên liên quan đóng một vai trò rất quan trọng (The ASEAN Secretariat, 2009; The ASEAN Secretariat, 2019).

Về mức độ cam kết của các quốc gia ASEAN trong ngành dịch vụ, sử dụng chỉ số Hoekman, Ishido và Fukunaga (2012) đã đánh giá mức độ cam kết của các quốc gia ASEAN trong gói AFAS 5 so với các FTA khác mà các nước thành viên đã ký kết và so với GATS, từ đó chỉ ra 8 hạn chế của quá trình mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN, như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ, tổng giá trị các giao dịch dịch


vụ, số lượng thể nhân có thể được tuyển dụng trong một ngành dịch vụ cụ thể, giới hạn tỷ lệ phần trăm tối đa tham gia đối với cổ phần nước ngoài... Dựa trên các phân tích này, nghiên cứu đưa ra 4 gợi ý nhằm thúc đẩy quá trình mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN như đặt mục tiêu cao hơn cho các gói AFAS tiếp theo và ưu tiên những ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết Đông Nam Á với các chuỗi sản xuất toàn cầu. Cũng cùng mục tiêu đánh giá đã các cam kết đã đạt được cho đến thời điểm năm 2012, nghiên cứu của Dee (2013) đã so sánh cam kết của các quốc gia ASEAN trong AFAS với thực tiễn thực hiện, tập trung vào hai lĩnh vực chủ chốt là dịch vụ tài chính và vận tải hàng không. Nghiên cứu đã cho thấy việc thực hiện các cam kết trên thực tế đã đạt được nhiều kết quả đáng kể và chỉ ra nguyên nhân của một số hạn chế như đặc điểm riêng của các ngành, đặc điểm của khung đàm phán và các lỗ hổng trong môi trường pháp lý. Bên cạnh đó, hai nghiên cứu nằm trong chuỗi bài thảo luận của ERIA cũng đã đánh giá mức độ và tình hình cam kết của các thành viên ASEAN trong AFAS tính đến thời điểm ký kết AFAS 8. Narjoko (2015) đã sử dụng phương pháp tính điểm trên thang 100 để đánh giá mức độ mở cửa của từng phân ngành dịch vụ đối với 10 quốc gia thành viên, so sánh với mục tiêu đặt ra trong AEC Blueprint và so sánh những tiến bộ mà AFAS 8 đạt được so với AFAS 7. Tác giả nhận định các quốc gia ASEAN đã sử dụng quy tắc linh hoạt trong AFAS để loại trừ một số phân ngành nhạy cảm khỏi phạm vi cam kết; đồng thời, mức độ cam kết theo phương thức 3 trong AFAS 8 đã tăng lên đáng kể, dẫn đến một số quốc gia không đạt được mức độ cam kết đưa ra theo gói này. Trong khi đó, nghiên cứu của Dee (2015) đã sử dụng bảng hỏi dựa trên AEC Scorecard để đánh giá thực tế việc triển khai các cam kết theo AFAS trong các nhóm ngành ưu tiên như y tế, sức khoẻ, du lịch, hàng hải, viễn thông và bảo hiểm. Từ đó, tác giả cho thấy thực tế triển khai đang không đạt được mức cam kết mà các quốc gia đã ký kết và đưa ra phương hướng phát triển cho tương lai, theo đó các cam kết trong AFAS cần liên kết chặt chẽ hơn với quá trình phát triển chính sách của các quốc gia thành viên. Bên cạnh đó, thông qua phương pháp tổng hợp và so sánh, nghiên cứu của Neo và cộng sự (2019) đã mô tả khái quát hoạt động dịch vụ tại ASEAN và quá trình mở cửa ngành dịch vụ trong ASEAN – tổng hợp nội dung các cam kết trong AFAS, mức độ cam kết trong AFAS 9 và đánh giá mức cam kết đã đạt được – dựa trên các nghiên cứu của nhiều tác giả về nội dung này. Nghiên cứu cũng đánh giá quá trình mở cửa ngành dịch vụ của ASEAN theo các FTA khác đã ký và đưa ra gợi ý cho AEC từ bài học hội nhập khu vực dịch vụ của EU.

Liên quan đến hoạt động đầu tư, một số nghiên cứu đã đánh giá mức độ và tác động của các cam kết liên quan đến đầu tư trong AEC. Nghiên cứu của Thangavelu


và Lim (2011) và Thangavelu (2015) đã đánh giá chỉ số hạn chế FDI của ASEAN sau khi các quốc gia ASEAN hoàn hành ký kết AFAS 8 và ACIA. Nghiên cứu chỉ ra một số kết quả nổi bật, tiêu biểu như: FDI trong các ngành sản xuất được mở cửa nhiều hơn so với các ngành dịch vụ; các nền kinh tế đang phát triển trong ASEAN như Việt Nam hay Campuchia có chính sách cởi mở hơn đối với đầu tư nước ngoài so với các nền kinh tế phát triển hơn như Thái Lan hay Malaysia nhằm duy trì động lực tự do hoá và hội nhập kinh tế trong khu vực; và khẳng định các quốc gia cần tiếp tục mở cửa các ngành dịch vụ vì đây là thành phần quan trọng sẽ đóng góp vào sự tăng trưởng của các quốc gia ASEAN trong tương lai. Bên cạnh đó, Fauzi, A. & Swaramarinda (2013) cũng đã đánh giá tác động của AEC đến hoạt động đầu tư thông qua phân tích thực trạng FDI của một số quốc gia ASEAN sau khi ACIA được triển khai. Nghiên cứu nhận định FDI vào các quốc gia ASEAN có xu hướng tăng lên khi ACIA hình thành và dự đoán dòng vốn FDI sẽ tiếp tục tăng lên khi AEC được hiện thực hoá.

1.1.2. Các nghiên cứu về quá trình hội nhập của Việt Nam trong AEC

Các nghiên cứu về Việt Nam và AEC chủ yếu tập trung phân tích các cam kết của Việt Nam trong AEC nói chung và các cam kết cụ thể trong từng lĩnh vực, đồng thời nhận định các cơ hội thách thức của Việt Nam khi thực hiện các cam kết của AEC.

Thứ nhất, các nghiên cứu chung về sự tham gia của Việt Nam vào AEC tập trung tìm hiểu những đóng góp của Việt Nam vào tiến trình hiện thực hoá AEC hoặc thực trạng việc thực thi các cam kết của Việt Nam tính đến thời điểm nghiên cứu.

Các nghiên cứu đã khẳng định thái độ chủ động và tích cực của Việt Nam trong quá trình xây dựng và hiện thực hoá các cam kết trong AEC, đánh giá lộ trình, kế hoạch hành động và cơ chế vận hành của AEC, đồng thời miêu tả kết quả thực hiện bước đầu, tính khả thi và những vấn đề cơ bản nhằm hiện thực hoá AEC (Nguyễn Văn Hà, 2013). Ngoài việc giảm thuế và tham gia một cách toàn diện cùng các thành viên khác trong nhiều lĩnh vực khác nhau, Việt Nam còn thúc đẩy mạnh mẽ việc đưa vào hiệu lực nhiều hiệp định quan trọng như ATIGA, CEPT/AFTA, AFAS và chủ động đưa ra sáng kiến nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân ASEAN về AEC (Vũ Huy Hoàng, 2010). Trong khi đó, Võ Minh Tập (2013) cũng đã phân tích rõ thực trạng của Việt Nam khi tham gia vào AEC – về quyết tâm chính trị, tiềm lực quốc gia, năng lực cạnh tranh, trình độ phát triển và tăng trưởng... nhằm chỉ ra những đối sách của Việt Nam với quá trình hiện thực hoá AEC như cải cách thể chế kinh tế, đẩy mạnh năng lực cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách phát triển...

Thứ hai, các nghiên cứu về AEC trong một số lĩnh vực đặc thù lại tập trung cụ thể hoá các cam kết trong AEC và tình hình thực hiện các cam kết này của Việt

Xem tất cả 247 trang.

Ngày đăng: 15/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí