Tổng Hợp Ngắn Gọn Những Trong Nghiên Cứu Trong Nước Và Ngoài Nước Có Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án. Từ Đó, Chương 1 Có Những Kết Luận Như Sau:


lượng kết hợp với các phương pháp định tính, sẽ góp phần tạo cơ sở vững chắc nhằm đề xuất các giải pháp thu hút dòng vốn FDI nội khối và bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu này.

Từ những đánh giá về tổng quan tình hình nghiên cứu ở trên, có thể khẳng định rằng không có một công trình hoặc nghiên cứu nào trùng lặp với nội dung và phạm vi nghiên cứu của luận án. Xuất phát từ tổng quan trên, tác sẽ sẽ tìm hiểu tình hình đầu tư FDI của ASEAN vào Việt Nam trong ngành dịch vụ, các cam kết AEC liên quan đến đầu tư vào ngành dịch vụ và xác định các yếu tố tác động đến thu hút nguồn vốn FDI này. Đây là khoảng trống nghiên cứu mà tác giả qua luận án này mong muốn tập trung phân tích, làm cơ sở đề xuất một số nhóm giải pháp có giá trị nhằm thu hút nguồn vốn FDI quan trọng này, đóng góp vào sự phát triển ngành dịch vụ nói riêng và nền kinh tế của Việt Nam nói chung trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của ASEAN.


TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Chương 1 tổng hợp ngắn gọn những trong nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án. Từ đó, Chương 1 có những kết luận như sau:

1/ Các các nghiên cứu trước đây về hoạt động FDI của ASEAN tại Việt Nam trong ngành dịch vụ chưa đặt trong bối cảnh hội nhập của khu vực, chưa có nghiên cứu trực tiếp về các yếu tố tác động đến thu hút FDI vào các ngành dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam thực thi các cam kết hội nhập AEC.

2/ Phần lớn các nghiên cứu dừng lại phân tích, tổng hợp và đánh giá thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam từ các quốc gia ASEAN hoặc các yếu tố FDI vào các ngành dịch vụ nói chung mà chưa phân tích tổng thể thực trạng, thực tiễn chính sách theo hướng cam kết hội nhập và yếu tố thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ của Việt Nam.

3/ Từ tổng quan nghiên cứu, Chương 1 chỉ ra khoảng trống nghiên cứu đó là: chưa có nghiên cứu tập trung làm rõ thu hút FDI từ ASEAN vào các ngành dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh thực thi các cam kết trong AEC, đây chính là hướng nghiên cứu sâu của luận án.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT FDI VÀO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ

TỔNG QUAN VỀ AEC

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào các ngành dịch vụ tại Việt Nam trong bối cảnh triển khai cam kết hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - 6


2.1. Những lý luận cơ bản về thu hút FDI

2.1.1. Khái niệm và vai trò của FDI

2.1.1.1. Khái niệm

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã và đang ngày càng trở nên phổ biển trên thế giới. Theo đó, đã có nhiều quan điểm được đưa ra nhằm định nghĩa cho hành vi này, tiêu biểu là một số khái niệm của các tổ chức quốc tế:

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (1996), FDI được định nghĩa bằng một khái niệm tương đối rộng. Theo đó, OECD (1996) đưa ra cách hiểu: “Đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; (iii) Tham gia vào một doanh nghiệp mới; (iv) Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm)”. OECD cho rằng, nhà đầu tư FDI không nhất thiết phải kiểm soát toàn bộ công ty họ đầu tư mà chỉ cần nắm giữ ít nhất 10% cổ phần hoặc quyền bỏ phiếu trong doanh nghiệp.

Trong khi đó, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) (1993) định nghĩa FDI như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình đầu tư quốc tế trong đó có một tổ chức cư trú tại một nền kinh tế thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Lợi ích lâu dài ở đây hàm ý sự tồn tại trong thời gian dài của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp này”. Tương tự như OECD (1996), IMF (1993) cho rằng một nhà đầu tư cần nắm giữ ít nhất 10% cổ phẩn hoặc quyền bỏ phiếu. Mục đích của việc giới hạn 10% cổ phần hoặc quyền biểu quyết nhằm mục đích đảm bảo tính bền vững của FDI, đồng thời phân biệt FDI với danh mục đầu tư.

Còn theo UNCTAD (2012), “FDI là việc đầu tư dài hạn gắn liền với lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một chủ thể đầu tư ở một quốc gia này (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty mẹ) vào một công ty ở một quốc gia khác (công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty con)”. Khác với định nghĩa của OECD (1996) và IMF (1993), UNCTAD (2012) không sử dụng tỷ lệ vốn cổ phần tối thiểu tại doanh nghiệp FDI để phân loại vốn FDI. Thay vào đó, UNCTAD (2012) định nghĩa FDI trên khía cạnh định tính và mục tiêu của khoản đầu tư.


Như vậy, mặc dù được diễn giải theo các cách khác nhau nhưng các quan điểm đều có sự thống nhất về bản chất của hoạt động FDI. Các cách hiểu này đều nhấn mạnh vào lợi ích dài hạn mức độ ảnh hưởng của chủ đầu tư đối với thực thể nhận đầu tư. FDI phản ánh mục tiêu của một thực tể cư trú tại một nền kinh tế muốn có được lợi ích dài hạn từ một thực thể cư trú tại một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư. Khi đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư không chỉ di chuyển nguồn tài chính của mình mà còn có thể mang cả công nghệ sản xuất, thương hiệu, kỹ năng quản lý…ra khỏi biên giới quốc gia trong dài hạn. Nhà đầu tư hướng tới sử dụng và quản lý các nguồn lực một cách chặt chẽ và hiệu quả nhằm thu được lợi ích đầu tư tối đa cho mình, đồng thời mang lại một số lợi ích kinh tế xã hội cho nước nhận đầu tư.

2.1.1.2. Vai trò của FDI

a. Tác động tích cực

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra những tác động tích cực đối với cả chủ đầu tư nước ngoài và quốc gia nhận đầu tư.

Đối với chủ đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp nước ngoài có thể lưu chuyển tự do dòng vốn của mình đến mọi địa điểm trên thế giới mà họ nhận thấy có triển vọng nhằm thu được mức sinh lời cao nhất với rủi ro thấp nhất nhờ hoạt động FDI. FDI mang đến những “lợi thế cạnh tranh” nhất định mà doanh nghiệp không thể có được nếu chỉ tiến hành hoạt động kinh doanh trong nội địa. Những lợi thế này giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, tăng doanh thu tiêu thụ và giảm bớt các rủi ro nhờ đa dạng hoá hoạt động tại các thị trường quốc tế.

Đối với nước nhận đầu tư: Theo UNCTAD (2003), FDI mang lại nhiều lợi ích cho nước nhận đầu tư, bao gồm các tác động tích cực sau:

Thứ nhất, FDI mang lại nguồn lực tài chính cho nước nhận đầu tư. Nhu cầu về vốn luôn là một nhu cầu cấp thiết, đặc biệt ở các nước đang phát triển. FDI được coi là nguồn vốn quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều MNEs, nhờ quy mô lớn và sức mạnh tài chính, có khả năng tiếp cận các nguồn tài chính mà các doanh nghiệp nước sở tại không có được (Hill, 2000). Jenkins và Thomas (2002) cho rằng FDI có thể đóng góp vào tăng trưởng kinh tế không chỉ thông qua cung cấp vốn nước ngoài mà còn dẫn tới thu hút thêm vốn đầu tư trong nước, vì vậy làm tăng tổng hiệu ứng tăng trưởng của FDI. Đặc biệt, trong các dự án đầu tư trong các ngành công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, các nhà máy công nghệ cao… cần nhiều vốn đầu tư, sự hỗ trợ vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng (Lall & Streeten, 1977; Razin và cộng sự, 1999).

Thứ hai, các dự án FDI tạo việc làm và thu nhập cho nước nhận đầu tư. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc


làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài và gián tiếp thông qua những tổ chức trong nước khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá và dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Việc tạo thêm việc làm giúp tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tích luỹ trong nước (Feldstein, 1994; Hill, 2000; Kastrati, 2013). Thực tiễn ở một số quốc gia cho thấy, FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng lao động. Tuy nhiên, khi các quốc gia nhận đầu tư vượt qua giai đoạn sản xuất công nghệ thấp (thâm dụng lao động), tiền lương bắt đầu tăng và xuất hiện tình trạng thiếu lao động tay nghề cao thì tác động này của FDI sẽ trở nên mờ nhạt dần (UNCTAD, 1999). Thứ ba, FDI góp phần chuyển giao công nghệ (CGCN) cho nước nhận đầu tư.

FDI góp phần CGCN sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Thu hút FDI từ các doanh nghiệp có ưu thế về công nghệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CGCN bí quyết kinh doanh, góp phần tăng cường khả năng công nghệ của nước chủ nhà, tăng năng suất và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia (OECD, 1991; Dunning,1993).

Thứ tư, FDI mở rộng tiềm năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu cho các nước nhận đầu tư. Doanh nghiệp của nước nhận đầu tư có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách cung cấp nguyên liệu, sản phẩm đầu vào hoặc dịch vụ thuê ngoài cho các công ty đa quốc gia. Tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua hợp tác với doanh nghiệp có vốn FDI giúp các doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư tiếp cận thị trường quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất (Djankov & Hoekman, 2000; OECD, 1998, 2002).

b. Tác động tiêu cực

Bên cạnh đó, UNCTAD (2003) cũng chỉ ra các tác động tiêu cực của FDI:

Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư xã hội nhưng còn hạn chế về chất lượng tăng trưởng. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, nếu như các nước nhận đầu tư không có các chính sách và thể chế phù hợp để định hướng và điều phối FDI, dành chủ yếu nguồn vốn này cho đầu tư các dự án thâm dụng lao động, tỷ lệ giá trị gia tăng của khu vực FDI thấp thì sẽ không tạo nên hiệu quả tăng trưởng vượt trội tương ứng, làm hạn chế khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và năng lực cạnh tranh quốc gia (Zukowska-Gagelmann, 2000; Barrel & Holland, 2000).

Thứ hai, FDI có thể gia tăng nguy cơ phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư. Các doanh nghiệp FDI làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hoá vào các công ty xuyên quốc gia tại nước đầu tư. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia hiện nay phụ thuộc quá nhiều vào vốn FDI và


xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của khối FDI ở một số quốc gia chiếm đến hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ phụ thuộc vào một số doanh nghiệp FDI lớn. Tăng trưởng phụ thuộc quá nhiều vào FDI có thể gây ra sự bất ổn định cho nền kinh tế của nước nhận đầu tư.

Thứ ba, sự phát triển của các doanh nghiệp FDI có thể làm mất đi các việc làm truyền thống, trong khi chất lượng nguồn nhân lực nói chung chưa thực sự được cải thiện. Các dự án FDI tạo ra nhiều việc làm mới – cả trực tiếp và gián tiếp – nhưng cũng làm mất đi nhiều việc làm truyền thống của dân cư do ảnh hưởng của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động (Hill, 2000; Hatzius, 2000). Các dự án FDI, đặc biệt ở các nước đang phát triển, còn thiên về khai thác nguồn lao động giá rẻ, trình độ thấp, nhiều doanh nghiệp sử dụng cơ chế thử việc để liên tục thay lao động và không chú trọng hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dẫn đến năng suất lao động không có sự cải thiện (Aiken & Harrison, 1999; Kastrati, 2013;). Bên cạnh đó, FDI cũng có thể gây ra tình trạng bất bình đẳng về lương tại một số quốc gia (Leamer, 1993; Driffield & Taylor, 2000)

Thứ tư, việc CGCN thông qua các dự án FDI gây nguy cơ nhận những kỹ thuật lạc hậu hoặc không thích hợp cho nước nhận đầu tư. Nhiều doanh nghiệp FDI thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật và máy móc thiết bị cũ khi các máy móc công nghệ này trở thành lạc hậu để có thể đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm ở nước đầu tư. Việc CGCN lạc hậu gây ra nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư trong việc tính giá trị của máy móc chuyển giao, thiệt hại trong việc tính tỷ lệ đóng góp trong các doanh nghiệp, gây tổn hại cho môi trường sinh thái và ảnh hưởng đến chất lượng và chi phí sản xuất (Jarolim, 2000; Glass & Saggi, 1999).

Thứ năm, các hoạt động đầu tư FDI có thể gây tổn hại đến môi trường và lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Một số doanh nghiệp FDI đã gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng, làm biến đổi hệ sinh thái và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, an sinh xã hội. Nhiều doanh nghiệp FDI cũng có trình độ công nghệ sản xuất trung bình, tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn. Nguyên nhân là nhiều doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ nghiêm các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường, đồng thời năng lực thể chế của các nước nhận đầu tư còn hạn chế trong việc thực thi các khía cạnh pháp luật về môi trường (Moosa, 2002).

Thứ sáu, một số doanh nghiệp FDI tiến hành những hành vi tiêu cực, trốn tránh nghĩa vụ tài chính. Hoạt động chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI còn diễn ra thường xuyên, tạo nên tình trạng lỗ giả lãi thật, gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước và tác động không tốt đến môi trường đầu tư.


2.1.2. Các yếu tố tác động đến thu hút FDI

2.1.2.1. Ba nhóm yếu tố tác động đến thu hút FDI theo UNCTAD

Cho đến nay đã có rất nhiều lý thuyết nghiên cứu và lý giải các yếu tố tác động đến thu hút dòng vốn FDI như đã trình bày trong Chương 1 của luận án. Đặc biệt, trên cơ sở khung lý thuyết OLI của Dunning, UNCTAD (1998a) đã đưa ra 3 nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến thu hút FDI bao gồm (i) khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, (ii) các yếu tố của môi trường kinh tế và (iii) các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Dựa trên ba nhóm yếu tố này, UNCTAD đã thực hiện các cuộc điều tra thường niên nhằm đánh giá và xếp hạng cạnh tranh giữa các quốc gia trong thu hút FDI. Đây là cơ sở quan trọng trong việc sử dụng để đánh giá hiệu quả về cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút FDI ở cấp độ quốc gia.

(i) Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư

Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư gồm cả các quy định có liên quan trực tiếp và có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI.

Các chính sách và quy định liên quan trực tiếp đến FDI bao gồm các quy định về thâm nhập, thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài (như cho phép, hạn chế hay cấm đầu tư vào một số ngành và lĩnh vực nhất định, các ưu đãi nhằm khuyến khích FDI, các quy định cho phép tự do hoạt động hay hoạt động có điều kiện), các cơ chế hoạt động của thị trường (như cạnh tranh bình đẳng, hiện tượng độc quyền, thông tin thị trường minh bạch...), các tiêu chuẩn phân biệt và đối xử đối với FDI (như phân biệt hay không phân biệt với các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau). Ngoài ra, một số quy định và chính sách gián tiếp nhưng cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định đầu tư như chính sách thương mại, chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách lao động và các chính sách phát triển khác. Các quy định thông thoáng, ít các rào cản, có nhiều ưu đãi sẽ góp phần thu hút

FDI và tạo điều kiện cho các dự án FDI hoạt động thuận lợi. Ngược lại, cơ chế chính sách và quy định có nhiều hạn chế và rào cản sẽ khiến FDI không thể thâm nhập vào thị trường và làm giảm động lực đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Mỗi quốc gia có định hướng và mục tiêu phát triển khác nhau trong từng thời kỳ vì thế các quy định và chính sách sẽ được điều chỉnh phù hợp.

(ii) Các yếu tố của môi trường kinh tế

Nhiều nhà đầu tư nhận định các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng lớn đến thu hút FDI. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định đầu tư phụ thuộc vào động cơ của nhà đầu tư nước ngoài.

- Các nhà đầu tư có động lực tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố như quy mô thị trường, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu thị trường, thu nhập bình quân


đầu người, khả năng tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng tại nước nhận đầu tư. Ví dụ, quy mô thị trường là một yếu tố quan trọng mà các chủ đầu tư phải cân nhắc khi muốn mở rộng thị trường tiêu thụ. Một quốc gia có dân số đông, GDP bình quân đầu người cao, sức mua lớn sẽ có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư (Dunning, 1993; UNCTAD, 1998a; OECD, 2002).

- Đối với các nhà đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản chiến lược, các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, lao động giá dồi dào và giá rẻ, lao động có trình độ, sáng chế, phát minh, công nghệ, cơ sở hạ tầng...sẽ có ảnh hưởng quan trọng trong quyết định đầu tư. Trong lịch sử, tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, nguyên liệu thô và các sản phẩm nông nghiệp là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Nhưng hiện tại, chỉ có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào không đủ để biến một địa điểm đầu tư trở hấp dẫn. Nhà đầu tư chỉ tiến hành FDI khi nước nhận đầu tư không có đủ các kỹ thuật và kỹ năng cần thiết để khai thác và bán nguyên liệu thô (UNCTAD, 1998a). Trong khi đó, với đầu tư tìm kiếm lao động, các MNEs tại những quốc gia có chi phí lao động thực tế cao thường tiến hành thành lập hoặc mua lại các công ty con ở các nước có chi phí lao động thực tế thấp hơn để giảm chi phí sản xuất. Sự phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia bao gồm hệ thống giao thông vận tải đường bộ, các phương tiện vận tải đồng bộ và hiện đại, đủ tầm hoạt động quốc gia và quốc tế, hệ thống liên lạc viễn thông hiện đại có thể nối mạng toàn quốc và liên thông toàn cầu, hệ thống điện nước dồi dào phát triển rộng khắp có chất lượng cao cũng là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định đầu tư (Dunning, 1993; UNCTAD, 1998a; OECD, 2002).

- Đối với các nhà đầu tư tìm kiếm hiệu quả, các yếu tố như chi phí mua sắm các nguồn tài nguyên và tài sản, có cân đối với năng suất lao động, chi phí đầu vào như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc, chi phí mua bán thành phẩm, việc tham gia các hiệp định hội nhập, hệ thống và các chính sách thể chế, cấu trúc thị trường, các mạng lưới doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư là các yếu tố có ảnh hưởng quan trọng. Bên cạnh đó, động lực tìm kiếm hiệu quả còn được dựa trên việc hợp lý hoá cơ cấu nguồn vốn, đầu tư tìm kiếm thị trường theo cách mà công ty đầu tư có thể thu được lợi nhuận từ việc quản lý chung các hoạt động phân tán theo địa lý. Để việc tìm kiếm sản xuất ở nước ngoài có hiệu quả, các thị trường xuyên biên giới cần phải là các thị trường phát triển, mở cửa – do đó các thị trường có sự hội nhập khu vực thường thu hút nhiều FDI (Dunning, 1993; UNCTAD, 1998a; OECD, 2002).

(iii) Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh

Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh là các biện pháp mà Chính phủ nước sở tại hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm


các chính sách xúc tiến đầu tư, các ưu đãi và khuyến khích đầu tư (như miễn giảm thuế, ưu đãi thuê mặt bằng…), các biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao chất lượng sống của con người, các dịch vụ hậu đầu tư, các biện pháp nhằm giảm tiêu cực và tăng minh bạch. Từ lâu, các nước nhận đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này. Do đó, Chính phủ các nước thường tìm cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư

Rủi ro quốc gia/Lạm phát; Tỷ giá hối đoái; Chi phí vốn trong nước; Chính sách thuế doanh nghiệp, Đổi mới nền kinh tế; FDI và mở cửa với FDI; Quan hệ song phương; Đầu tư công; Phát triển tài chính; Hỗ trợ ODA

Các yếu tố tác động đến thu hút FDI

Môi trường kinh tế

Quy mô thị trường: Tăng trưởng quy mô thị trường; Mở cửa/Thương mại; Chi phí lao động; Chất lương/kỹ năng lao động; Cơ sở hạ tầng; Tài nguyên; Ổn định/Rủi ro kinh tế; Trình độ phát triển công nghệ; Khoảng cách địa lý - văn hoá

Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh

Ổn định chính trị; Chất lượng quy định pháp luật; Tham nhũng/quan liêu; Thông tin FDI quá khứ

Hình 2.1: Các nhóm yếu tố tác động đến thu hút FDI

(Nguồn: UNCTAD, 1998a và Tổng hợp của các giả)

Cũng xuất phát từ nền tảng lý thuyết nói trên, nhiều yếu tố khác nhau đã được đề cập trong các nghiên cứu thực nghiệm giải thích về dòng vốn FDI. Nhìn chung, các nghiên cứu đều nhận định FDI có mối tương quan đáng kể theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực đối với từng yếu tố tác động. Kết quả các nghiên cứu thực nghiệm thống nhất về các nhóm yếu tố có khả năng tác động đến FDI, tuy nhiên kết quả thu hút vốn FDI ở từng nhóm quốc gia và khu vực lại khác nhau. Sự khác biệt này có thể là do sự khác nhau trong lợi thế so sánh của từng quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, quy mô thị trường, cơ sở hạ tầng, nguồn lực lao động và chính sách ưu đãi được coi là những yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Trong khi đó, đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi thì chính sách cởi mở và sự đổi mới theo hướng thương mại hoá và tư nhân hoá sẽ là yếu tố chính thu hút FDI. Bên cạnh đó, kết quả các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy, ngoài các yếu tố do UNCTAD (1998a) đưa ra, các yếu tố liên quan đến chất lượng thể chế như ổn định chính trị, kiểm soát tham nhũng, chất lượng quy định của pháp luật cũng có thể ảnh hưởng đến thu hút dòng vốn FDI. Hình 2.1 tổng hợp các nhóm yếu tố tác động đến thu hút FDI trong một số nghiên cứu thực nghiệm.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/12/2023