Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Các hình thức của sáp nhập
- Sáp nhập theo chiều ngang: Là hình thức sáp nhập diễn ra giữa các công ty trong cùng một ngành kinh doanh (hay có thể nói là giữa các đối thủ cạnh tranh).
- Sáp nhập theo chiều dọc: Là hình thức sáp nhập của các công ty khác nhau trong cùng một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Có hai dạng sáp nhập theo chiều dọc là backward - liên kết giữa nhà cung cấp và công ty sản xuất và forward - liên kết giữa công ty sản xuất và nhà phân phối. Sáp nhập theo chiều dọc diễn ra nhiều trong lĩnh vực dầu mỏ.
- Sáp nhập hỗn hợp (conglomerate): Là hình thức sáp nhập giữa các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Mục tiêu của những vụ sáp nhập như vậy là đa dạng hóa, và chúng thường thu hút sự chú ý của những công ty có lượng tiền mặt lớn.
Tại Việt Nam, mới chỉ có rất ít hoạt động mua lại và sáp nhập. M&A lại chủ yếu mạnh ở các nước phát triển vì môi trường pháp lý tốt, thị trường vốn, tài chính được tự do hóa, doanh nghiệp ở các nước này có tiềm lực mạnh, có tiếng tăm nên các doanh nghiệp nước khác muốn vào nước này để tận dụng tiếng tăm sẵn có thông qua M&A.
c. Phân loại theo luật Việt Nam:
- Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sác văn hoá, hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên
Có thể bạn quan tâm!
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản tại Hải Phòng - Thực trạng và giải pháp - 1
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản tại Hải Phòng - Thực trạng và giải pháp - 2
- Pháp Luật Điều Chỉnh Hoạt Động Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Việt Nam
- Số Vốn Fdi Vào Thị Trường Bđs Việt Nam Từ 2000 - 2007
- Bất Lợi Thế Của Hải Phòng Trong Thu Hút Fdi Vào Lĩnh Vực Bđs
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra
Hiện nay, doanh nghiệp liên doanh là loại hình được nước các nước tiếp nhận đầu tư ưa chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đào tạo lao động, khẳng định dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Ngoài ra việc liên doanh với nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước sử dụng có hiệu quả những điều kiện sản xuất hiện có như nhà xưởng, máy móc thiết bị, mở rộng thị trường tiêu thụ... Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quan lý doanh nghiệp với bên nước ngoài thì mới đạt hiệu quả cao trong việc liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn ĐTNN nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế. Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.
Với hình thức này, chủ ĐTNN không bị hạn chế bởi tỷ lệ góp vốn và được toàn quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó không xảy ra mâu thuẫn trong quá trình điều hành, quản lý kinh doanh như các hình thức đầu tư khác.
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm
quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư, hình thức này giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng lại khó thu hút đầu tư, chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời.
- Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng dành riêng cho khu vực Nhà nước. Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư
nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà ĐTNN chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Nhìn chung, hình thức này giúp nước nhận đầu tư thu hút được vốn đầu tư vào những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách Nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế. Tuy nhiên với hình thức này nước sở tại khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình. Mặt khác, Nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư.
1.2.4 Môi trường đầu tư
1.2.4.1 Khái niệm: Môi trường đầu tư được hiểu là bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính trị, cơ sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoật động của doanh nghiệp (Wim P.M. Vijverberg - Giáo sư kinh tế trường đại học New York, 2005).
1.2.4.2 Các nhân tố của môi trường đầu tư
Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó xem có thuận lợi hay không nghĩa là cân nhắc đến các yếu tố có liên quan đến lợi thế địa điểm của nước nhận đầu tư. Các nhân của môi trường đầu tư ở nước sở tại được chia thành ba nhóm :
Thứ nhất là các yếu tố của môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế:
- Môi trường tự nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên: Việc có sẵn các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thường là yếu tố cơ bản thu hút FDI của các nước. Các nước chủ đầu tư, vốn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thô trên thị trường thế giới, muốn giảm bớt
sự phụ thuộc này để đảm bảo tính ổn định cho nền kinh tế. Họ tìm cách đầu tư trực tiếp sang các nước có nhiều tài nguyên để có được quyền khai thác lâu dài các nguồn tài nguyên đó. Trong khi đó phần lớn các nước đang phát triển đều thiếu vốn, đặc biệt là thiếu thiết bị, công nghệ khai thác, kỹ thuật bán hàng, cơ sở hạ tầng, ... để khai thác các nguồn lực của mình.
Lực lượng lao động dồi dào, trình độ thấp và giá rẻ ở nhiều nước đang phát triển cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. Lực lượng này đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp chế tạo cần nhiều lao động. Ngược lại, những ngành, lĩnh vực, những dự án đầu tư đòi hỏi công nghệ cao thường kèm theo yêu cầu về lao động có trình độ cao, có tay nghề và được đào tạo bài bản.
Cơ sở hạ tầng như cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng, mạng lưới viễn thông... cũng ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Chính vì vậy khi lựa chọn địa điểm đầu tư các chủ ĐTNN phải cân nhắc vấn đề này.
- Môi trường kinh tế: Nhiều nhà kinh tế cho rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng quyết định trong thu hút FDI. Nhà ĐTNN luôn nghiên cứu kĩ lưỡng về tình hình phát triển kinh tế của quốc gia hay khu vực mà họ tiến hành đầu tư vì nó đảm bảo tính hiệu quả cho đồng vốn đầu tư của họ. Vì vậy, một quốc gia hay khu vực có nền kinh tế phát triển ổn định sẽ là yếu tố đảm bảo hơn, giúp các nhà ĐTNN yên tâm khi tiến hành đầu tư tại quốc gia hay khu vực đó.
Thứ hai là khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, bao gồm các qui định liên quan trực tiếp đến FDI và các qui định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI.
Các qui định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp FDI bao gồm các qui định về việc thành lập và hoạt động của các nhà ĐTNN(cho phép, hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép tự do hay hạn chế quyền sở hữu của các chủ ĐTNN đối với các dự án; cho phép tự do hoạt động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động; có hay không các ưu đãi nhằm khuyến khích FDI; ...), các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI (phân biệt hay không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư
có quốc tịch khác nhau, ...)… Các qui định này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt động FDI. Các qui định thông thoáng, có nhiều ưu đãi, không có hoặc ít có các rào cản, hạn chế hoạt động FDI sẽ góp phần tăng cường thu hút FDI vào và tạo thuận lợi cho các dự án FDI trong quá trình hoạt động. Ngược lại, hành lang pháp lý và cơ chế chính sách có nhiều qui định mang tính chất hạn chế và ràng buộc đối với FDI sẽ khiến cho FDI không vào được hoặc các chủ đầu tư không muốn đầu tư. Các qui định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy theo định hướng, mục tiêu phát triển của từng quốc gia trong từng thời kỳ, thậm chí có tính đến cả các qui hoạch về ngành và vùng lãnh thổ.
Nhìn chung các chủ ĐTNN thích đầu tư vào những nước có hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và có thể dự đoán được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.
Thứ ba là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh, bao gồm chính sách xúc tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ ĐTNN (các trường song ngữ, chất lượng cuộc sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước nhận đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các nước thường tìm cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo thuận lợi nhiều hơn cho các chủ đầu tư.
FDI là một hoạt động lâu dài, vì vậy khi đầu tư ở đâu thông thường chủ ĐTNN sẽ phải có thời gian nhất định sống và làm việc ở đó, có khi họ còn phải mang theo cả gia đình. Điều này khiến họ phải cân nhắc đến các dịch vụ tiện ích xã hội của nước nhận đầu tư xem chúng có đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của họ hay không. Một nước không có các trường học quốc tế dành cho người nước ngoài, chất lượng nhà ở thấp, các dịch vụ vui chơi giải trí nghèo nàn...sẽ khó thu hút được nhiều FDI.
1.3 KHUNG PHÁP LÍ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM
Tại Việt Nam hiện chưa có văn bản cụ thể quy định về hoạt động FDI vào lĩnh vực BĐS mà nó chỉ chịu sự điều chỉnh của các văn bản luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đất đai hay Luật Kinh doanh BĐS và một số văn bản dưới luật khác... Việc tìm hiểu pháp luật điều chỉnh hoạt động FDI và hoạt động kinh doanh BĐS sẽ giúp phần nào hiểu thêm về khung pháp lí điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực BĐS trước khi chưa có một văn bản luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề này.
1.3.1 Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Pháp luật điều chỉnh hoạt động FDI đã từng bước được điều chỉnh cho phù hợp nhằm thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua. Trước năm 2000, hoạt động ĐTNN vào Việt Nam chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 - đây là bộ luật đầu tiên điều chỉnh các quan hệ về FDI, được sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992. Đến năm 1996 ra đời bộ Luật Đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam và được sửa đổi, bổ sung vào năm 2000 (được gọi tắt là luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000). Luật này có một số quy định liên quan đến BĐS đáng chú ý như sau:
Việc thế chấp quyền sử dụng đất và đền bù giải phóng mặt bằng được quy định cụ thể hơn tại điều 46 của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000. Theo đó doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam thay vì chỉ được phép thế chấp tại các tổ chức tín dụng Việt Nam như quy định trước đây. Quy định mới này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiếp cận các nguồn vốn vay được phép hoạt động tại Việt Nam bao gồm các tổ chức tín dụng nước ngoài để đa dạng hóa các nguồn vốn vay cho doanh nghiệp và mở rộng khả năng vay vốn của những dự án cần nguồn vốn lớn.
Mặt khác, nhằm giảm chi phí liên quan đến việc sử dụng đất đai của nhà đầu tư và nâng cao trách nhiệm của bên Việt Nam ngay từ khi hình thành dự án cho đến khi thực hiện dự án, điều 46 cũng quy định thêm rằng trong trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, thì bên Việt Nam có trách nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp Nhà nước Việt Nam cho thuê đất thì Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND), thành phố trực thuộc Trung ương (TW) nơi có dự án đầu tư tổ chức thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. Việc bổ sung nghĩa vụ của bên Việt Nam trong khâu giải phóng mặt bằng giảm được nhiều gánh nặng cho phía nước ngoài do đây là một khâu khá tốn kém và đòi hỏi nhiều thời gian để hoàn thành các thủ tục pháp lí.
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 còn thể hiện sự tiến bộ so với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 ở chỗ đã bỏ các yêu cầu mang tính áp đặt đối với việc chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên hợp doanh và đơn giản hóa thủ tục, cụ thể là sửa đổi điều 34 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Theo đó, cơ quan cấp phép đầu tư sẽ không xem xét, phê duyệt hợp đồng chuyển nhượng vốn mà chỉ thực hiện cơ chế đăng kí nhằm mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, xóa bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã cải cách theo hướng có lợi cho nhà đầu tư nhưng vẫn còn những tồn tại nhất định như thủ tục hành chính còn khá phức tạp, cơ quan quản lí Nhà nước can thiệp khá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Những tồn tại trên đã dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc thu hút FDI vào các ngành nói chung và BĐS nói riêng. Xuất phát từ thực tế trên, luật Đầu tư 2005 đã được kì họp thứ 8 Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Luật này có vai trò quan trọng trong việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, phát huy nội lực và thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Sau đây là một số điểm mới của Luật Đầu tư năm 2005 có liên quan đến ĐTNN vào lĩnh vực BĐS:
Đầu tiên, Luật Đầu tư năm 2005 cho phép nhà đầu tư tự chủ trong phạm vi vốn đầu tư của mình, trong việc tự chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư và hình ngoài thức huy động vốn. Nếu như trước đây khi muốn đầu tư vào lĩnh vực BĐS các nhà ĐTNN phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước, vốn góp của nhà ĐTNN không được quá 70% vốn pháp định thì nay các nhà ĐTNN được phép đầu
tư 100% vốn. Tại điều 21 của Luật Đầu tư 2005 có quy định như sau về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Hơn nữa, nếu trước đây pháp luật Việt Nam không cho phép nhà đầu tư giảm vốn pháp định trong thời gian hoạt động của dự án thì nay nhà đầu tư đã có quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc điều chỉnh dự án đầu tư. Điều 36 của Luật Đầu tư năm 2005 cũng quy định thời hạn sử dụng đất của dự án đầu tư không quá năm mươi năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá bảy mươi năm. BĐS là một lĩnh vực đầu tư khá đặc biệt, yêu cầu thời gian hoàn vốn kéo dài đặc biệt là các BĐS như văn phòng, căn hộ, trung tâm thương mại xây dựng với các mục đích cho thuê. Quy định thời gian thuê đất như vậy là hợp lí để các chủ đầu tư có khả năng thực hiện dự án, thu hồi vốn và thu lợi nhuận.
Một điểm mới nổi bật của Luật Đầu tư năm 2005 là chủ trương phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh, Ban quản lí Khu Công nghiệp (BQLKCN), Khu chế xuất (KCX), Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi Ban quản lí - BQL) cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như quản lí hoạt động đầu tư và giảm bớt các dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện