Quan Niệm Của Trần Nhuận Minh Về Nhà Thơ


sáng tạo nghệ thuật dưới một cách nhìn nhận, cách phản ánh mới đa chiều, phong phú hơn, và vì thế mà chiều sâu hiện thực cũng được phản ánh sinh động, cụ thể hơn. Ông đã từng tâm sự: “Hiện thực đất nước hôm nay là những biểu hiện của một xã hội đang vận hành trong cơ chế thị trường, từng bước hội nhập với thế giới, với tất cả những mảng sáng, tối của nó. Nói thật gọn, tôi rất quan tâm tới mảng hiện thực này. Vì nó đang tác động rất ráo riết đến đời sống của cả xã hội và của tất cả mọi người”[34.2]. Xét trong cả quá trình, hiện thực trong sáng tác của Trần Nhuận Minh được phản ánh như sau:

Thời kì trước 1986: đó là hiện thực cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là của công nhân (vùng mỏ) trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh giải phóng miền Nam. Thế giới nhân vật của ông là những chàng trai, cô gái trẻ trung, phới phới, yêu đời, hăng say lao động, hi sinh tất cả vì vùng mỏ thân yêu, vì tương lai đất nước; cuộc sống thường ngày của họ tuy còn vất vả, thiếu thốn nhưng tràn đầy niềm vui, đầy sự yêu thương, xẻ chia của cộng đồng. Trần Nhuận Minh đã từng phát biểu về hiện thực cuộc sống mà tác giả phản ánh trong giai đoạn này cụ thể: “Giai đoạn này, tôi viết để phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt. Nghĩa là viết về cái mà cuộc sống cần mình. Chủ đề tư tưởng là cái nhiệm vụ chính trị cần phải đạt đến. Nội dung hiện thực là thực tế nó cần phải xẩy ra, còn nó có xẩy ra thật hay không, điều đó không quan trọng. Tôi nghĩ cả một nền thơ của một giai đoạn lịch sử đã được viết trong quan điểm đó, rất trong sáng và chân thành. Chính vì thế mà “Toàn đất nước có chung tâm hồn, có chung gương mặt”(Chế Lan Viên)[4.18]. Nhưng đó là hiện thực của những năm trước 1975. Sau chiến thắng năm 1975, trong niềm vui lướn lao của dân tộc, Trần Nhuận Minh cùng một số các nhà thơ, nhà văn khác đã có một sự linh cảm về những khó khăn, gian lao mới, cam go và ác liệt mới…mà nhân dân sẽ phải gánh chịu, bởi sau sự tàn phá của chiến tranh với bao hậu quả ghê gớm của nó để lại cho dân tộc; bởi sự thay đổi cơ chế quản lí, từ cách quản lí xã hội trong thời chiến, sang quản lí xã hội thời bình với bao sự mới mẻ, lạ lẫm, đầy khó


khăn, thử thách! Do đó, hiện thực được phản ánh trong thơ ông không chỉ còn là một chiều (trong sáng, ngợi ca), mà là một hiện thực đa chiều hơn, nhiều mảng hiện thực trong vùng khuất tối đã được phản ánh; nhiều số phận bất hạnh, nhiều tình huống trớ trêu của kiếp người đã được mô tả với nỗi niềm xót xa, đau dớn của nhà thơ. Đến thời kì 15 năm cuối của thế kỉ XX (1986 – 2000) – giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, hiện thực trong sáng tác của ông là một hiện thực đa chiều, trong đó có số phận của nhiều tầng lớp nhân dân với những va đập của cuộc sống thời kì mở cửa với bao sự phức tạp, bao sự mâu thuẫn (ở cả trong nước và nước ngoài). Trong thơ Trần Nhuận Minh ở thời kì này có đủ các loại người trong xã hội: “từ nhà lãnh đạo đầu tỉnh (như nhà khoán hộ Kim Ngọc) đến một tên tướng cướp ở sân bay nước Nga, nếu có thiếu thì, có lẽ chỉ thiếu một loại người nhiễm HIV”[20.3]. Hiện thực đó được phản ánh một cách sinh động trong hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ (1993) và Giọt phù sa vạn dặm (2000). Ông đã nêu rõ quan điểm khi cầm bút của mình giai đoạn này là:“Giai đoạn hai, từ năm 1986, tôi viết về cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của mình, nỗi ám ảnh của cá nhân mình trước mọi cái mắt thấy tai nghe, cùng với những tổng kết, trải nghiệm của cuộc sống mà mình tích tụ được đến lúc đó, qua lăng kính của chủ nghĩa nhân văn. Không viết được như thế mình mình không sống được bình thường như mọi người”[15.18]. Rồi tiếp theo 10 năm đầu thế kỉ XXI, hiện thực trong sáng tác của Trần Nhuận Minh là: hiện thực về “cõi Người” nói chung, với mọi nỗi niềm của CON NGƯỜI, kể cả nỗi niềm của CON NGƯỜI trước cõi “Vô Cùng” của vũ trụ, trước sự huyền bí của tâm linh đã được phản ánh sâu sắc, thâm trầm trong ba tập thơ: Bản xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và Miền dân gian mây trắng (2008).

Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã suy nghĩ rất nhiều về cái gọi là hiện thực và sự thật trong thơ. Ông cho rằng: Bây giờ là lúc toàn bộ sự thật phải được nhìn nhận lại, cố nhiên trên lập trường và lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Sự thật


và trách nhiệm phải nói thật, cùng với quyền được nói thật như chính Đảng yêu cầu. Không được giả dối, che đậy, xuyên tạc; không nên “uốn cong ngòi bút” “viết theo kiểu tùy thời” mà sự thật phải được phản ánh như chính nó đang tồn tại. Hầu hết các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh đều cho rằng: thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự. Nghĩa là thơ hiện thực chủ nghĩa. Cảm hứng của nó thường là những vấn đề thuộc về những mặt trái của xã hội, những biểu hiện tiêu cực của xã hội với mục đích là phê phán. Vì thế giọng điệu thơ ở đây thường nhuốm vị đắng cay, chua chát, xót xa.. Trần Nhuận Minh cũng đã từng nói về thơ thế sự của mình như sau: “Tôi xin nói thêm, viết về mặt trái của đời sống và cơ chế xã hội, nhưng tôi viết với sự chia sẻ từ trong gan ruột là nỗi đau của chính mình”[8.213]. Nhà thơ Bằng Việt trong lời giới thiệu thơ Trần Nhuận Minh đăng trên Tạp chí Hội nhà văn, có nhận xét rất đúng rằng: “Anh chỉ đau niềm đau duy nhất “đau đời”. Nỗi đau nhân sinh đó, trong anh, vừa ở góc độ cá thể hóa, vừa ở tầm phổ quát”. Đó là một điều đáng quý ở nhà thơ hiền lành nhưng sâu sắc này. Ông không như một vài cây bút khác: viết về những điều tiêu cực với giọng hằn học để thỏa mãn sự bức xúc cá nhân của chính mình. Ông viết về mặt trái của xã hội như sự kiếm tìm những non yếu, thiếu sót để đấu tranh, để loại bỏ, hoặc ít nhất là để cảnh báo cho tất cả mọi người! Bởi nói theo cách nói của nhà nghiên cứu, phê bình nổi tiếng Biêlinski thì: “Một dân tộc càng mạnh, càng vươn cao về mặt đạo đức bao nhiêu, thì nó càng dũng cảm nhìn vào mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy nhiêu. Một dân tộc yếu hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên được nữa thì chỉ thích ca tụng mình…Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không như vậy được” (dẫn theo Lê Sơn: Tiếng cười của một trái tim nổi giận; Tạp chí văn học số 3/1976). Trong tương quan với hiện thực, và đối chiếu với sự thật, nhà thơ Trần Nhuận Minh có một sứ mệnh rất lớn: “sứ mệnh tìm kiếm. Một sự tìm kiếm không dễ dàng, có lúc đầy vất vả, gian truân. Không hiếm những dằn vặt, khổ đau, những hi sinh trong sự truy tìm hoặc kiên trì một chân lí”. Cái cụ thể và xác định trong thơ Trần


Nhuận Minh không có gì khác mà chính đó là cái cụ thể và xác định của những chất liệu trực tiếp trong đời sống hiện thực, từ: một cảnh ngộ, một tâm trạng, một hình ảnh, một con người cụ thể,v.v…tất cả đều từ trong hiện thực cuộc sống mà ra. Và Trần Nhuận Minh đã tự khái quát về bút pháp hiện thực trong sáng tác của mình: “Như vậy là tôi đã đi bằng đôi chân hiện thực để đi từ sông ra biển, từ công nhân đến với nhân dân và từ nhân dân đến với con người”[30.3].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

Theo Trần Nhuận Minh, sứ mệnh của thi ca còn phải thực hiện chức năng nhân đạo hóa con người, thanh lọc tâm hồn con người để ngày càng hoàn thiện hơn, để có thể vươn tới những tình cảm lớn lao hơn. Nhưng cách giáo dục của thơ là phải thông qua những rung cảm nghệ thuật để nâng cao những năng lực thẩm mĩ cho độc giả. Thơ ca không phản ánh cuộc sống một cách lạnh lùng, mà trải qua sự trăn trở, đau đớn, hi vọng với những xúc cảm thật mãnh liệt. Trong tác phẩm văn học đằng sau bức tranh hiện thực đời sống bao giờ cũng chứa đựng những khát vọng thiết tha muốn thể hiện một tư tưởng, một quan niệm riêng của người sáng tác về chân lí đời sống, về cái thiện, về cái ác, về cái tốt đẹp cũng như cái xấu xa trong quan hệ giữa con người với con người. Ngòi bút của ông lúc nào cũng bám sát vào cuộc sống con người và đi tới tận cùng với từng số phận riêng của họ. Ông đã từng phát biểu: “Tôi viết về nỗi đau của con người”, nên khi đọc thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy hiện lên những con người có tên cụ thể, bên cạnh những con người vô danh như: Mợ Hữu, thím Hai Vui, Bá Kim, cháu Thủy, ông Hủi, gã đánh giậm, con đĩ… ,“tên tất cả các nhân vật của thơ tôi đều không phải là tên thật ở ngoài đời, dù bài thơ nào cũng xuất phát từ một người có thật, hoặc được gợi ý từ một việc có thật. Tôi đã sử dụng phương pháp “xây dựng nhân vật điển hình” của chủ nghĩa hiện thực, để tạo dựng các chân dung thơ của mình để người đó vừa là “người đó”, với tư cách là một cá thể riêng lẻ, như tôi đã gặp hoặc sống cùng với họ, nhưng đồng thời còn là “loại người đó” với tư cách là một khái quát nghệ thuật mang tính cộng


Thơ Trần Nhuận Minh - 4

đồng”[22.217]. Tất cả đều thể hiện sự phản ánh về “số phận nhân dân có những bi kịch lạ lùng”.

Là người tham gia vào lịch sử và có một phần trách nhiệm trước lịch sử, Trần Nhuận Minh có niềm tin vào chính mình, niềm tin vào nhân dân mình, cho dù có phải trải qua đắng cay trong cuộc đời dâu bể thì nhà thơ vẫn tỉnh táo nhận ra rằng: “Anh hãy cạn đến tận cùng cái chén cay đắng của cuộc đời, ở đáy cốc nhất định sẽ có vị ngọt, nhưng vấn đề là anh có uống cạn cái cốc đời ấy không? Và anh có khả năng nhận ra cái vị ngọt ấy không? Sau những rủi ro, vận may thế nào cũng rụt rè gõ cửa, cái chính là tai ta phải tinh tế nhận ra tiếng gõ cửa nhẹ nhàng đó. Cũng như sau bão, thường có mưa đền cây. “Không phải là niềm vui mà chính là nỗi khổ/Đã dạy tôi thành người…”[31.325]. Cho nên Trần Nhuận Minh viết về nỗi đau con người như một niềm hạnh phúc: “Tôi muốn người đọc nhận ra nụ cười sau những giọt nước mắt và theo tôi, chỉ có những ai thẩm thấu được vị mặn chát của những giọt nước mắt mới hiểu được hạnh phúc thực sự là thế nào. Đấy cũng là một cách để tiếp cận hạnh phúc”[38.2].

Có thể thấy, Trần Nhuận Minh có khả năng đổi mới tư duy và thích ứng với hoàn cảnh mới một cách nhanh chóng. Đối mặt với hiện thực bề bộn, đầy khó khăn và thách thức của cuộc sống thời kì sau chiến tranh, nhà thơ không ngơ ngác, không hốt hoảng! Thật bình tĩnh, ông tự cho mình một sự thoải mái cần thiết để nhập cuộc. Khéo léo, năng động và bén nhạy, ông bám sát vào từng bước đi của đời sống, tìm kiếm, khám phá, lí giải các vấn đề của đời sống từ chính cái hôm nay ngổn ngang bề bộn ấy! Bước sang thời kì đổi mới, ông lặng lẽ và mải mốt kiếm tìm một cách nhìn nhận và phản ánh hiện thực mới: phong phú, phức tạp, đa chiều và đầy sự ngang trái, trớ trêu, cũng như biểu hiện của sự tiêu cực; Đặt chân sang thế kỉ XXI, ông tỏ ra bình tĩnh hơn, bình tâm hơn để suy tư, chiêm nghiệm để vươn tới một tầmvóc mới: vấn đề CON NGƯỜI trong thời kì hiện đại. Có thể khẳng định: Hiện thực nhiều mặt chất chứa nhiều mâu thuẫn


và phức tạp ấy đã trở thành “mảnh đất phì nhiêu” cho ngòi bút ưa kiếm tìm mâu thuẫn và xung đột của Trần Nhuận Minh thả sức tung hoành.

Thông qua những sáng tác cụ thể, thông qua những lời tâm sự, những ý kiến trực tiếp của nhà thơ về sứ mệnh của thi ca với hiện thực cuộc sống, chúng ta càng thêm hiểu, thêm kính trọng và yêu mến nhà thơ – cùng với quan niệm hết sức rõ ràng, triệt để của ông là: Thi ca phải bám sát cuộc sống, phải phản ánh thật trung thực bộ mặt và bản chất cuộc sống. Nếu có phê phán hiện thực cuộc sống, thì sự phê phán ấy cũng chỉ là để tự gột rửa, tự thức tỉnh, là để tự vươn lên cái Thiện, cái Mỹ mà thôi – chứ không phải là sự hằn học, phá phách và mất lòng tin vào những điều tốt đẹp!

1.3.2. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về nhà thơ

Trong lần trả lời phỏng vấn Tạp chí Phố Hiến, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong sáng tác: “Thơ chỉ cần hay. Nhưng trong ý nghĩ của tôi, cái hay không tách rời cái mới. Không phải cái mới nào cũng hay, song bất cứ cái hay nào cũng có cái mới…Vì thế, đổi mới cũng là sự sống còn của thơ…”. Trần Nhuận Minh nhấn mạnh vào cá tính sáng tạo của nhà thơ. Lao động của nhà thơ là lao động sáng tạo, nghề văn là nghề sáng tạo. Không sáng tạo thì không phải là nghệ sĩ đích thực. Nhà thơ đích thực không chấp nhận cách viết dễ dãi, rập khuôn, không có sự sáng tạo, không có dấu ấn riêng. Trần Nhuận Minh luôn nghiêm túc, tỉnh táo nhìn lại mình và đi sâu vào những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình sáng tạo của mình. Ông đã truy tìm nguyên nhân dẫn đến hậu quả của lối thơ viết không sáng tạo đó là do kiểu viết theo một công thức đã định sẵn. Kiểu thi sĩ như thế sẽ tạo ra một lối văn chương minh họa, ít có sự sáng tạo. Sau khi đã truy tìm được nguyên nhân của sự “dậm chân tại chỗ” trong sáng tác, Trần Nhuận Minh đặt ra vấn đề là phải thay đổi cách nghĩ, cách viết để tìm hướng đi mới cho mình không xa rời tính dân tộc, xa rời cái căn cốt của văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế khi Đảng đưa ra chủ trương: “phải nhì thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, thì ông


cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác đã ào lên như những “chiến sĩ – nghệ sĩ” thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời một cách tích cực, hết mình.

Đại hội VI của Đảng (1986) như một luồng sinh khí mới dẫn lưu cho dòng chảy của thơ ông từ “sông ra biển lớn”. Thơ ông đã chuyển hẳn sang khuynh hướng thơ thế sự, đời tư. Trong khi đó, nhiều nhà thơ vẫn còn dừng lại ở cảm hứng ngợi ca, hoặc là còn rụt rè hay né tránh để khỏi chạm đến những vấn đề nhạy cảm nhất của xã hội. Nhận thức được vận hội mới, Trần Nhuận Minh đã tìm được lối rẽ riêng, dám nhấn vào những nghịch cảnh trái ngang, những nghịch lí nhức nhối của đất nước, những bi kịch về số phận con người trong các sáng tác của mình. Đặc biệt nhà thơ chuyên chú vào việc nhìn nhận con người ở phương diện đời thường để phát hiện và tỏa sáng tình thương, tạo nên một chiều sâu văn chương thế sự, đời tư trong thời kì hiện đại.

Bài thơ Nhà thơ áp tải là mốc đầu tiên của lần “lột xác” này. Với tập Nhà thơ và hoa cỏ, Trần Nhuận Minh đã làm nên “vệt thơ chân dung” mà Nguyễn Bùi Vợi cho rằng thơ ông đã đổi mới, đã thật sự “lật cánh để bay ở một tầm bay mới”. Thơ chân dung đã đưa Trần Nhuận Minh trở thành nhà thơ thế sự có một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Và, ông đã bộc lộ quan điểm khi hướng ngòi bút của mình sang dòng thơ thế sự: “thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao la, viết về con người, cũng tức là viết về mình đấy. Và như thế, mình có mặt ở khắp mọi nơi, tự tan ra trong nỗi vui buồn của rất nhiều người. Vậy thì cái được lại càng nhân lên, còn gì sung sướng hơn nữa. Viết về người, vẫn cần hoa mĩ, trữ tình, nếu bài thơ yêu cầu cần phải như thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt cách hay một nhân cách. Thông thường thơ thế sự cần mộc hơn, nhưng cũng phải tinh hơn, không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc, dư ba…thơ sẽ không sống được”[21.254].

Thế nhưng không chỉ cứ mãi dừng lại ở “vệt thơ chân dung” này, “Tôi nghĩ là mình phải bật lên một kênh khác thì mới nên viết tiếp”[11.373]. Một lần nữa nhà thơ lại rơi vào “cảm giác trống vắng” vì không biết viết như thế nào để


làm mới mình. Trong một đêm dự biểu diễn văn nghệ, trước thể Xô nát du dương, trầm bổng vừa như còn mơ hồ vừa như đã định hình, ông “vô cùng xúc động”, tâm hồn nhà thơ như được tràn đầy thi hứng, với quyết tâm làm mới mình - Bản Xô nát hoang dã ra đời. Có ý kiến cho rằng, sau Bản Xô nát hoang dã, Trần Nhuận Minh sẽ kiệt sức. Đáp lại ý kiến đó, ông trả lời: “Không chỉ có trong sáng tác mà cả ngay trong công việc,… bao giờ tôi cũng hết lòng,…làm việc hay viết, đều cố gắng đi đến tận cùng cái có thể trong cái không thể. Và trở lại, như phù sa của một dòng sông, cái kiệt cùng đó sẽ bồi đắp lại cho mình, để sẽ có một mùa thu hoạch sau”[15.374].

Người xưa nói “bất bình tắc minh”, không có tâm sự khốc liệt thì không bật ra thành tiếng kêu, không thành văn chương được. Hoàn cảnh cá nhân nhà thơ, hoàn cảnh xã hội (qua các thời kì khác nhau của đất nước), hoàn cảnh của bao thân phận, bao số kiếp của con người trong vòng xoáy của cuộc đời đã là chất liệu, là cảm hứng nghệ thuật để Trần Nhuận Minh sáng tạo nên những bài thơ, tập thơ đầy tâm huyết, chất chứa gan ruột của mình! Ông đã làm nên một “vệt thơ” riêng cho mình – hay nói cách khác: ông đã dày công lao động và sáng tạo làm nên những tác phẩm nghệ thuật có “nhan sắc” riêng biệt! Nhấn vào bản chất sáng tạo của nhà thơ, Trần Nhuận Minh cũng đề cập đến một yêu cầu có liên quan trách nhiệm của người cầm bút. Nhà thơ là người hướng dẫn độc giả về nhân sinh quan, về đạo đức và có khả năng chinh phục công chúng bằng nghệ thuật ngôn từ. Vì thế mà thơ ông làm xúc động người đọc ngay cả khi ông đưa ra những triết lí (có vẻ căng cứng) về sự vô trách nhiệm của thái độ “im lặng”, thái độ thờ ơ, lạnh lùng…của bao kẻ đối với sự bất công luôn gắn chặt với số phận của bao người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội:

Mọi đặc quyền đều xúc phạm nhân dân Và bất công như quả bóng lăn tròn

Từ chân người này sang chân người khác Im lặnh là vàng ư?

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 20/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí