và hiệu quả giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đảm bảo mức độ cần thiết về cơ sở vật chất làm cho sự nghiệp giáo dục gắn chặt và phục vụ đắc lực cho các nhiệm vụ kinh tế xã hội và quốc phòng của địa phương”[38; tr140]. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Giáo dục và của tỉnh, Đảng bộ Hà Bắc, toàn Đảng, tòa dân đã hăng hái khắc phục khó khăn, phấn đấu để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ của ngành.
Trước những yêu cầu đổi mới, ngành giáo dục đã xây dựng một chương trình phát triển giáo dục 3 năm, từ năm 1987 đến năm 1990 với một hệ thống đề án gồm 38 chỉ tiêu, 10 tư tưởng chỉ đạo. Đó là:
1. Giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nhà trường là công cụ của nền chuyên chính vô sản.
3. Kế hoạch phát triển giáo dục là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
4. Chất lượng và hiệu quả, trước mắt và lâu dài, kịp thời và đón đầu.
5. Phát triển theo vùng, phổ cập và nâng cao, địa trà và mũi nhọn.
6. Giáo dục toàn diện, trò ra trò, học ra học.
7. Hệ thống giáo dục đa dạng, linh hoạt.
8. Thầy ra thầy, dạy ra dạy, trường ra trường, lớp ra lớp.
Có thể bạn quan tâm!
- Vị Trí Địa Lý, Điều Kiện Tự Nhiên Và Dân Cư
- Khái Quát Tình Hình Giáo Dục Huyện Quế Võ Trước Năm 1997
- Chủ Trương Đổi Mới Giáo Dục Của Ban Chấp Hành Trung Ương, Đảng Bộ Tỉnh Bắc Ninh Và Sự Vận Dụng Của Huyện Quế Võ
- Giáo Dục Trung Học Cơ Sở Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 1997- 2017
- Sự Phát Triển Số Lượng Giáo Viên Thcs Giai Đoạn (1997- 2017)
- Bảng Thống Kê Xếp Loại Học Sinh Lớp 9 Tốt Nghiệp 2013- 2017
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
9. Tăng cường nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật và kinh nghiệm giáo dục tiên tiến.
10. Đổi mới quản lý giáo dục.
Với chương trình phát triển giáo dục này, ngành giáo dục đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Tháng 4/1990, Bộ GD& ĐT chính thức quản lý thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học và sau đại học. Đây chính là một bước ngoặt quan trọng của ngành giáo dục Việt Nam,
đánh dấu bước trưởng thành của nền giáo dục cùng với sự phát triển chung của lịch sử dân tộc. Dưới sự quản lý, chỉ đạo thống nhất của Bộ GD&ĐT, ngành giáo dục của ta sẽ phát triển một cách đúng hướng với mục tiêu phát triển toàn diện.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục từ sau Đại hội VI (12/1986), Đại hội VII (6/1991) đã đề ra mục tiêu mới cho ngành giáo dục. Theo đó, mục tiêu giáo dục và đào tạo sẽ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện, có năng lực chuyên môn, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Tháng 1/1993, BCH TW Đảng họp Hội nghị lần thứ 4, ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trong đó xác định “Giáo dục đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính đầu tư cho phát triển”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết Trung ương 4 đã xác định những quan điểm chiến lược và phương hướng tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục nước nhà trong những giai đoạn tiếp theo.
Ngoài ra, cũng trong thời kỳ này, ngành giáo dục đã nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đổi mới, từ đó tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Quyết tâm của Đảng, chính quyền các cấp và của ngành đã được nhân dân toàn tỉnh, toàn huyện nhiệt tình hưởng ứng.
Đặc biệt, ngành Giáo dục đã tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền thực hiện củng cố hoàn thiện bộ máy giáo dục, tiếp tục đa dạng hóa các loại hình trường lớp cho phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội của địa phương.
Những năm sáp nhập cấp 1, cấp 2 thành trường phổ thông cơ sở, chất lượng giáo dục chỉ đạo thiếu chiều sâu, cấp 1 bị coi nhẹ nên việc tách trường phổ thông
cơ sở thành trường Tiểu học và trường THCS là một đòi hỏi cấp thiết. Những nơi có đủ điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên đã tiến hành tách trường phổ thông cơ sở thành trường Tiểu học và THCS. Ngay cả những nơi chưa đủ điều kiện cũng tách về tổ chức và hoạt động.
Từ năm 1997 trở đi, giáo dục huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tiếp tục phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ 10 đã ban hành Nghị quyết chia tách tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập sau 34 năm sáp nhập với Bắc Giang.
Đối với giáo dục giai đoạn 1997- 2000 cũng có nhiều chuyển biến tốt. Ngành đã chỉ đạo tách cơ sở vật chất giữa trường Tiểu học và Trung học cơ sở, tách trường cấp 2 và cấp 3 thành trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tính đến năm 2000, cơ bản các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở đã được tách riêng cơ sở vật chất.
Bước sang thế kỉ XXI, tính từ năm 2001 đến năm 2016, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII. Trên lĩnh vực giáo dục, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã xác định rõ chủ trương, chính sách phát triển giáo dục trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiêṇ đại hóa đất nước. Đại hội đã xác định chúng ta cần phải phấn đấu để lĩnh vực này cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Các biện pháp cụ thể như đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá"; Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học; Đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội; Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; Phát triển
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và hệ thống hướng nghiệp, dạy nghề. Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học; gắn đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục. Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện miễn giảm việc đóng góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh giỏi.
Sang đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”[51]. Điều đó cho thấy chất lượng giáo dục và đào tạo của chúng ta hiện nay còn hạn chế nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội; Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người; Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; Cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; Chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập; Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục còn tồn tại nhiều và chưa được khắc phục triệt để, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, đào tạo nước ta đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 29 khóa XI (NQ 29-NQ/TW) đề ra, Đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra phương hướng: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công nghệ; Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo; Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Từ đó, Đại hội XII đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu là phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục và đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
Như vậy, có thể thấy rằng, thông qua các kỳ đại hội, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm tới vấn đề phát triển giáo dục, nhằm xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, có chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực cũng như thế giới; nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh nói chung và huyện Quế Võ nói riêng đã bước đầu đề ra những biện pháp có hiệu quả trong việc xây dựng, tu bổ nhà trường, tăng cường cơ sở vật chất, phần nào chăm lo đời sống của giáo viên và học sinh. Từ đó, ngành giáo dục đã đạt được những thành tựu nhất định cả về cơ sở vật chất lẫn đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh giai đoạn 2006- 2010 là: “Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Chăm lo phát triển giáo dục mầm non. Củng cố vững chắc kết quả giáo dục phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, phân đấu đến năm 2010 cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học. Mở rộng mạng lưới trường lớp một cách khoa học, phù hợp với thực tế địa phương, đảm bảo khả năng tiếp nhận học sinh vào các cấp học, bậc học đáp ứng việc phân luồng học sinh và nhu cầu xã hội học tập. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong nhà trường, nhất là trong dạy thêm, học thêm. Xây dựng đội ngũ giáo viên đồng bộ, đạt chuẩn về trình độ, đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục. Tăng cường cơ sở vật chất, các điều kiện dạy và học theo hướng hiện đại hóa. Đến năm 2010, có 80% trường mầm mon, 100% trường tiểu học, 80% trường trung học cơ sở, 100% trường trung học phổ thông công lập đạt Chuẩn Quốc gia. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập... phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Không ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng tâm là nâng cao dân trí, mở rộng đào tạo và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt từ 39 đến 40%”.[38; tr244]
Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có các Nghị quyết, Chỉ thị chỉ đạo ngành giáo dục và đào tạo của tỉnh trong từng năm học: Tỉnh ủy đã ban hành
Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 19/4/2007 của BCH Đảng bộ tỉnh về “Phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007- 2015 và định hướng đến năm 2020”; UBND tỉnh ban hành quyết định số 114/2006/QĐ-UBND ngày 3/11/2006 của UBND tỉnh về Phê duyệt kế hoạch phổ cập giáo dục Trung học tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006- 2010; Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 28/9/2006 của UBND tỉnh về việc chống tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục; Quyết định số 181/QĐ-UBND ngày 31/12/2008 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định dạy thêm, học thêm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 8/2/2010 của UBND tỉnh về tăng cường đánh giá và kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục phổ thông...
Thực hiện chỉ thị Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Sở Giáo dục và đào tạo đã xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của từng năm, yêu cầu các Phòng Giáo dục và Đào tạo trong toàn tỉnh tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua trong toàn ngành, từng bước đưa sự nghiệp giáo dục của huyện, của tỉnh phát triển vững chắc.
Tới Đại hội lần thứ XVIII, Đảng bộ Bắc Ninh đã quyết định những nội dung quan trọng về giáo dục và đào tạo trong 5 năm (2011- 2015), đó là: “Triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực chất, mũi nhọn ở các cấp học, tăng tỷ lệ trường chuẩn quốc gia, gắn liền với đẩy mạnh bồi dưỡng nhân tài tương ứng với tiềm năng và truyền thống. Đổi mới phương pháp dạy và học, đánh giá kết quả học tập ở tất cả các cấp học, kiểm định độc lập chất lượng giáo dục và công khai xếp hạng các cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh. Tiếp tục xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo quy định chuẩn hóa của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thực hiện có hiệu quả chương trình kiên cố hóa trường, lớp học; xây dựng hệ thống nhà trường chất lượng cao ở các huyện và THPT Chuyên Bắc Ninh nhằm nâng cao một bước chất lượng bồi dưỡng nhân tài; cấp đủ diện tích đất cho các trường học theo quy định nhằm phấn đấu 100% các phòng học được kiên cố hóa; phấn đấu 69% trường mầm non, 100% trường tiểu học, 78,3% trường THCS và 69,5% trường THPT đạt
chuẩn Quốc gia; đẩy mạnh việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng khu đại học cùng với việc triển khai, nâng cấp trường Cao đẳng Sư phạm thành trường Đại học đa ngành, xây dựng trường Cao đẳng Y dược, tạo điều kiện cho các trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp của Nhà nước và tổ chức xã hội đầu tư trên địa bàn tỉnh phát triển. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục- đào tạo, huy động nguồn lực các thành phần kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ cao, gắn kết đào tạo nguồn nhân lực với nhu cầu xã hội, đáp ứng đòi hỏi đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề; xây dựng hệ thống trường chuyên THPT, lớp chọn, đội chuyên THCS”.[38; tr279]
Ngành Giáo dục và Đào tạo đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương và của tỉnh, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng xã hội và chính quyền địa phương, nỗ lực quyết tâm cao, khắc phục khó khăn, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động và các phong trào thi đua, đưa sự nghiệp giáo dục huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phát triển lên một tầm cao mới cả về quy mô, chất lượng, hiệu quả và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục.
Thực hiện theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng cũng như của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh, giáo dục huyện Quế Võ đã từng bước phát triển nhanh chóng. Đặc biệt, để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giải quyết tình trạng cấp bách: thiếu giáo viên, huyện đã mở lớp sư phạm tại huyện. Đến năm 2000, đội ngũ giáo viên cơ bản được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Chất lượng giáo dục văn hóa của huyện tăng lên. Học sinh THCS xếp khá, giỏi tăng từ 12- 13% (năm 1991) lên 47,8% (năm 1999- 2000). Giáo viên giỏi cấp huyện, cáp tỉnh ngày càng tăng. Năm 1998- 1999 có 260 giáo viên dạy giỏi các cấp (mỗi cấp có hàng chục giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh).
Cơ sở vật chất của các nhà trường cũng được tăng cường. Những năm 1996- 2000 tiếp tục đầu tư hàng chục tỷ đồng kiên cố hóa Trường học, đưa số trường