Thế Lữ đi vào cõi Tiên , chốn bồng lai tiên cảnh , Thế Lữ đi vào cõi mông ,
Hàn Mặc Tử về thế giới Thánh Thần , Thươn
g đế, Xuân Diêu
say sưa n ơi cõi
Tình, Huy Cân
sầu cùng vũ tru ̣, thì Chế Lan Viên lại tìm đến cõi âm với đầy
yêu tinh , quỷ quái, sọ người, chết chóc...sau đó trở về vớ i cõi ta và bay lên vũ
trụ. Mỗi môt
nhà thơ đã tìm cho mình môt
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Về Tư Duy Thơ 1.1.1.khái Niệm Về Tư Duy
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 4
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 5
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 8
- Cảm Hứng Lịch Sử Về Cái “Điêu Tàn” Và Tư Duy Siêu Hình
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
con đường thoát ly hiên
thưc
. Và
thoát ly hiện thực cũng chính là thoát ly và o chính mình, tâm sự với cõi lòng mình. Cho dù là cõi âm, cõi mộng hay cõi tiên thì tất cả cũng chỉ là những ảo
ảnh do trí tưởng tượng sáng tạo ra chứ c hưa bao giờ là những t hưc
thể co
trong hiên
thưc
. Tuy nhiên cho dù thoát ly bằng cách nào đi chăng nữa thi
Chế Lan Viên cũng không tìm ra môt
lối thoát thưc
sự . Để rồi ông nghi ngơ
ngay cả sự tồn taị của chính bản thân mìn h và đã phải thốt lên “Ai bảo giù m: Ta có có ta không ?”. Chỉ một câu thơ ấy thôi cũng đủ cho ta thấy những dằn
văṭ, băn khoăn của môt
con người khát khao thấu hiểu moi
lẽ , mà trước hết là
thấu hiểu chính bản thân mình, sự tồn taị hay không tồn taị của mình. Qua đây
chứ ng tỏ môt
Ch ế Lan Viên sắc sảo , ông sớm nhân
thứ c và đăṭ ra những vấn
đề đòi hỏi phải được lý giải.
Chế Lan Viên đã luôn khao khát hiểu thấu đến tân
cùng bản chất mọi
vấn đề, ông không để măc
con người mình bị cuốn theo những cảm xúc tự
nảy sinh . Khi luc
tìm và o bể sâu của đáy lòng mình , không có môt
nhà thơ
mới nào laị day dứ t , trăn trở về sự hiên hữu của bả n thân mình như Chế Lan
Viên. Ta là ai? Vì sao lại có sự hiện diện của ta trong cõi đời này ?....là những
câu hỏi tự vấn lòng mình xuất hiên
nhiều trong thơ Ch ế Lan Viên. Nhiều câu
hỏi ấy như xoáy sâu vào tâm can ông , dày vò ông khiến ông luôn dằn văṭ và đau đớn. Và suốt chặng đường sáng tác từ “Điêu tà n” đến trong “Di cảo thơ” cuối đời đều bi ̣chi phối bởi suy tư ấy.
* Giai đoan
khá ng chiến chống Phá p và chống My
Nếu như trước Cách maṇ g Chế Lan Viên khẳng điṇ h chỗ đứ n g của
mình bởi “môt
niềm kinh di”
lớn lao trên văn đàn, thì sau Cách mạng vị trí ấy
được đẩy lên một tầm cao mới . Tầm vóc ấy xứ ng đáng với nhà thơ chiến si ̃ , nhà thơ Cách mạng trong thời đại mới . Cách mạng tháng Tám đã đổi thay vâṇ
mêṇ h dân tôc
, đổi thay tâm hồn mỗi con người và cuộc đời . Trong lúc Chế
Lan Viên đang lac
vào cõi hư vô , siêu hình và ngày càng bi qu an, bế tắc vi
chưa tìm đươc hướng đi cho đời , cho thơ mình thì Cách maṇ g thá ng Tám
bùng nổ. Cách mạng đã làm “thay đổi đờ i tôi , thay đổi thơ tôi” , như sau này
Chế Lan Viên từ ng khẳng điṇ h . Từ môt
con người trốn thoát thưc
tai
, suy
tưởng về thế giới huyền ảo , ông trở thành môt
người hành đôn
g . “Khi đã co
hướ ng rồi” nhà thơ gần như reo lên . Ánh sáng của cuộc đời mới đã xua tan
những u ám trong tâm hồn thi si ̃ trẻ tuổi ấy . Những tâp thơ mới của Chế Lan
Viên lần lươt
ra đời song hành cùng thời đaị , đánh dấu những bước ngoăṭ lic̣ h
sử trong thơ Chế Lan Viên . Tuy tư tưởng chính tri ̣và tình cảm của Chế Lan Viên rất gần với Cách maṇ g , với nhân dân , nhưng tư tưởng nghê ̣thuâṭ của
ông vân
còn môt
khoảng cách khá xa. Do vây
, phải mất hơn mười nă m trăn
trở trong cuôc
“nhân
đườ ng”, Chế Lan Viên mới có đươc
sự đổi thay căn bản
về quan niêm
nghê ̣thuâṭ và tư duy thơ.
Giai đoan
1945-1975 – giai đoan
sôi đôn
g , cam go nhất của lic̣ h sư
nước nhà, thơ ca đã làm môt
cuôc
chuyển mình không mấy dễ dàng cùng lịch
sử dân tôc . Chế Lan Viên đã nhanh chóng khẳng điṇ h mình là thi si ̃ tiên
phong trong giai đoan
này.
Lịch sử Việt Nam bắt đầu mở một trang mới khi Cách Mạng tháng Tám thành công. Nó như một cơ n gió lớn thổi bùng trên gương măṭ đất nước , trên
gương măṭ con người để làm số ng dây
môt
sinh khí mới mẻ , vui tươi. Cuôc
hồi sinh vi ̃ đaị ấy đã lay tỉnh Chế Lan Viên ra khỏi sự bế tắc của những tư duy
siêu hình về bản thể mang màu sắc tôn giáo, đưa con người nhà thơ trở về với
đờ i sống đất nước và dân tôc̣ . Thơ Chế Lan Viên giai đoan này có những bước
thay đổi căn bản và quyết liêṭ cả về tư tưởng lân tình cảm , đánh dấu môt
chăṇ g đường sá ng tác mới trong sự nghiêp của nhà thơ . Nêú như không co
Cách mạng , không có Đảng thì Thơ mới đã không đi lac vào những đường
ma lối quỷ, đã tut
sâu xuống những bờ vưc
thẳm nào rồi.
Cách mạng đã có một vai trò lớn đối với sự hồi sinh thơ Chế Lan Viên . Ánh sáng Cách mạng đã tác đ ộng mạnh mẽ đến cách nhìn , làm chuyển hướng suy nghi ̃ không chỉ đối với Chế Lan Viên mà cả các nhà thơ cùng thời . Quá
trình nhân
đường của các nhà t hơ mới nó i chung và Chế Lan Viên nói ri êng
gắn liền với từ ng bước , từ ng giai đoan
phát triển của hiên
thưc
Cách maṇ g .
Hiên
thưc
Cách maṇ g đã bồi đắp lên những tra ng thơ của Chế Lan Viên , lấy
lý tưởng của Đảng soi đường cho hình tư ợng thơ của mình. Tuy nhiên, những bướ c đầu của sự chuyển hướng, mỗi nhà thơ không tránh khỏi những nỗi lòng
băn khoăn trăn trở . Như phần đông các nhà thơ lan
g man
khác , Chế Lan Viên
không còn chạy trốn vào cõi trăng sao , cõi âm laṇ h leo đầy xương khô so ̣người nữa:
, hay thế giới ma quái
“Hãy cho tôi môt tinh cầu giá lanh.
Môt
vì sao trơ troi
cuối trờ i xa.
Để nơi đó thá ng ngà y tôi lẩn trá nh. Những ưu phiền đau khổ vớ i buồn lo”
Cách Mạng đến đã khiến Chế Lan Viên nhìn thẳng vào cuôc
đời mình .
Từ môt thi si ̃ ẩn mình trong Đài thơ , Tháp nghĩ của riêng mình, Chế Lan Viên
đã lôt
xác thành môt
thi si ̃ – chiến si ̃ trên măṭ trân
văn hóa , góp sức mình vào
viêc đ ấu tranh giải phóng dân tộc . Nhà thơ đã hòa mình vào cuộc đời các
chiến si ̃ để sá ng tác phuc
vu ̣kháng chiến , đi theo các đoàn bô ̣đôi
, dân công
ra tiền tuyến , Chế Lan Viên đã trở thành nhà thơ của nhân dân , nhà thơ của
Đảng. Tâp
thơ “Ánh sá ng và phù sa” ra đời năm 1960 đã đánh dấu môt
bước
ngoăṭ quan tron
g trong sự nghiêp
thơ Chế Lan Viên . Ánh sáng của Đảng và
phù sa của cuộc đời đã giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vươn tới niềm vui chung của dân tộc . Những bài thơ hay nhất của Chế Lan Viên lần
lươt
xuất hiên
từ đây . Và cũng từ đây , thơ ca Cách Maṇ g đã có môt
loaṭ bài
thơ về thơ mang dấu ấn thay đổi trong tư tưởng , trong nhân thứ c của Chế Lan
Viên đã dân
đ ến những thay đổi trong thơ . “Ánh sáng và phù sa ” là một tập
thơ gần như đối lâp
với “Điêu tà n” dưới nhiều góc đô.
Kháng chiến thắng lợi thì sự chuyển mình của Chế Lan Viê n cũng hoàn toàn thành công. Thơ Chế Lan Viên đã đ em đến cho đời những mùa quả ngoṭ
đầu tiên sau ngày hòa bình . Chế Lan Viên đã cho ra đời tâp thơ “Gử i cá c
anh” sau những ngày gắn bó với sự nghiêp
cách maṇ g . Tâp
thơ đánh dấu môt
bước chuyển biến quan trong trong sự nghiê ̣ p thơ ca cuả Chế Lan Viên giai
đoan
này. Tuy về số lươn
g chỉ là 17 bài viết trong kháng chiến chống Pháp va
dù chưa mấy thành công , nhưng điều đáng quý nhất là nhà thơ đã đi đún g
hướng. Đến giai đoan này thơ Chế Lan Viên đã có một sự chuyển hướng ,
chuyển đổi quan tron
g trong quan niêm
về thơ : từ cái tôi cá thể siêu hình
thành cái tôi hòa nhập với người từ sự phi thường sang bình thường . Nhà thơ
đã từ bỏ ch ân trời của sự bí ẩn hư vô , của siêu thưc để đêń với chân trời của
nhiều người . Chế Lan Viê n đã thoát khỏi sự bế tắc , dứ t bỏ đươc những băn
khoăn về siêu hình và cảm nhân
đươc
những vẻ đep
, những hy sinh to lớn ,
cũng như những tình cảm cao quý của quần chúng nhân dân . Tâp
thơ có ý
nghĩa như sự nhận đường, đánh dấu môt bước chuyên̉ trong toàn bô ̣sự nghiêp
thơ của Chế Lan Viên đi theo Cách maṇ g . Quá trình chuyển biến từ “Điêu
tàn” đến “Gử i cá c anh ” ta thấy có sự thay đổi rõ rêṭ cả về nôi dung và hình
thứ c nghê ̣thuâṭ , cả về chất và lượng . Người đoc̣ cái tôi đâu cả mà là cái ta đang dần dần mở rộng.
dường như không còn thấy
Chính sự thay đổi từ cái Tôi thành cái Ta, quá trình phát triển h ình
tươn
g trở nên có bề rôn
g mà thiếu đi bề sâu. Tâp
thơ “Gử i cá c anh” đăc
điểm
suy tưởng chính là hướng vân
đôn
g và phát triển theo bề rôn
g đó . Rất nhiều
bài thơ dài, câu thơ đươc
gian
ra lỏng đến nỗi có những câu thơ mà người đoc
tưởng như là môt đoan thơ dài gần 60 chữ. Những bỡ ngỡ là không tránh khỏi
vì đây là thời kỳ làm quen vớ i phương pháp sáng tác mới . Vì vậy , tâp
thơ
chưa đaṭ đến đươc
sự thuần thuc
về nôi
dung và hình thứ c .Cho nên Chế Lan
Viên như ngơ ngác lâu hơn người khác khi đứ ng trước bước ngoăṭ của lic̣ h sử . Tuy nhiên, khi đã thay đổi laị khá sâu sắc:
“Đừng đuổi thơ tôi ,vì một chút chiều tà ngả bóng. Hãy kiên lòng, sẽ thấy nắng mai lên”.
“Ánh sáng và phù sa ” (1960) và “Hoa ngà y thườ ng chim bá o bão ” (1967) là những tập thơ ra đời liên tiếp sau đó , là kết quả của sự nỗ lực không mêṭ mỏi. Có thể nói, chính sự đổi thay trong tư tưởng nhận thức của Chế Lan
Viên dân
đến những đổi thay trong thơ . Tâp
thơ là môt
minh chứ ng chứ ng to
Chế Lan Viên có sự chín muồi về tư tưởng và phong cách . Tâp thơ đã cho
thấy sự cách tân quan trong của Chế Lan Viên nói riêng và của thơ nêǹ thơ ca
Viêt
Nam nói chung . Có thể nói chính sự thay đổi trong tư tưởng nhận thức
của Chế Lan Viên dẫn đến những thay đổi trong thơ . “Ánh sáng và phù sa” là
môt
tâp
thơ gần như đối lâp
với “Điêu tà n” ở nhiều góc độ . Ở “Điêu tà n”
bạn đoc
bắt găp
môt
thế giới ma quái đầy xương khô so ̣người , thế giới của
nỗi buồn, sự mất mát . Còn ở “Ánh sáng và phù sa” lại là hành trình về với sự
sống, niềm vui, về với thế giới rông lớn của con người . Nêú như thơ Chế Lan
Viên trước đây chuông gam màu u tối thì nay lại chuộng gam màu tươi tắn .
Trong những tâp thơ trước Chế Lan Viên trầm mình trong cái chêt́ , trong hư
vô thì nay thơ Chế Lan Viên đươc tái sinh trong sự sống . Âm hưởng chủ đạo
của Chế Lan Viên viết về đất nước trong giai đoạn này là âm hưởng trữ tình
ngơi
ca. Hình ảnh đất nước vì thế mang vẻ tươi sáng , trong trẻo, diêm
“Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi và o.
lê:
Thấy ngà n nú i trăm sông diêm̃ lê Con ngọc trai đêm hè đáy bể .
Uống thủy triều bôn
g sá ng hat
châu”
(Chim lươn
trăm vòng - Ánh sáng và phù sa).
Cho dù có những đổi thay, tuy nhiên những băn khoăn day dứ t từ ng ám ảnh tác giả thuở “Điêu tàn”:
“Ai bảo giù m :Ta có có ta không?”.
Tâp
thơ “Ánh sáng và phù sa ” đã giúp chúng ta thấy rõ hơn quá trình
chuyển hướng thơ của Chế Lan Viên hoàn toàn không dễ dàng , đơn giản ma
trái lại phải trải qua “bao trân
gió mưa”.
“Xưa phù du mà nay đã phù sa. Xưa bay đi mà nay không trôi mất.
Cho đến đươc
lú a và ng đất mâṭ .
Măc
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua”.
(Thư gử i Tế Hanh). dù hình ảnh mới mẻ tràn đầy màu sắc đã thay thế nhữ ng hình ảnh
của bãi tha ma . Tuy nhiên không phải vì thế Chế Lan Viên đã cắt với những
ngọn nguồn thơ mình với quá khứ.
Từ bỏ thế giới hư vô siêu hình cũ “Ta là ai” để đến gần với duy vâṭ “ta vì ai”, chính là nét mới của cái Tôi Chế Lan Viên thời kỳ này:
“Ta là ai? Như ngon nến siêu hình.
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt. Ta vì ai ?khẽ xoay chiều ngọn bấc.
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh?”.
Có thế hỏi hành trình từ “ ta là ai?” đến “ta vì ai” là cả môt hành trình
dài trong sự chuyển biến thơ Chế Lan Viên là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là cả hai hướng đối lập trong quan niệm nghệ thuật . Thơ Chế
Lan Viên muc
đích bây giờ đã khác xưa : thơ phải vì Cách maṇ g , vì nhân dân
mà phục vụ , mà hướng tới. Mục đích đã thay đổi thì đối tượng thơ cũng thay đổi:
“Tôi viết cho ai?
Cho tất cả moi ngườ i.
Cho ai cũ thơ tôi là m ướ t á o. Nay họ về sưởi ấm dướ i thơ tôi”
(Nghĩ về thơ).
Viết về nghề , về thơ và về sứ mêṇ h của nhà thơ có lẽ chưa có nhà thơ nào lại viết nhiều như Chế Lan Viên . Trong các bài thơ : Nghĩ về nghề , nghĩ
về thơ, nghĩ.....Chế Lan Viên đã tỏ rõ quan niêm về đời , vể thơ rất ro.̃
Những tâp thơ “ Hoa ngà y thườ ng , chim bá o bão ”(1967); Những bà i
thơ đá nh giăc
(1972), Đối thoại m ới (1973); Ngày vĩ đại (1975) đều thống
nhất cảm hứ ng đã hình thành từ tâp
thơ “Ánh sáng và phù sa ”. Ở giai đoạn
này hồn thơ Chế Lan Viên đã thay đổi căn bản so với thời “Điêu tà n” (1937).
Đó là môt
cuôc
hành trình đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui.
Giữa những ngày đấ u tranh thống nhất đất nước , xây dưn
g xã hôi
chu
nghĩa ở Miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ x âm lươc
, tâp
thơ “Hoa
ngày thường - chim bá o bão ” đã ra đời kip
thời . Do vây
xây dưn
g và đấu
tranh là chủ đề xuyên suốt toàn tâp thơ . Chế Lan Viên dường như dành phần
nhiều cho nhiêm
vu ̣thứ hai : nhiêm
vu ̣đánh giăc
. Những bà i thơ: Thóc mới
Điên
Biên , Sao chiến thắng , Tổ quố c bao giờ đep
thế nà y chăng , Gử i Kiều
cho em năm đá nh Mỹ, Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng cho môi trá i tim ta....đã chi
rõ sự phẫn nộ của Chế Lan Viên và cũng là của toàn thể dân tôc
Viêṭ Nam với
đế quốc Mỹ - kẻ thù không đội trời chung . Khi chứ ng kiến những cảnh da
man của kẻ thù dân tôc Viêṭ Nam vô cùng căm phân:
“Bon
xé xá c trẻ em:Bọn châm lửa đốt nhà
Bọn mưu giết ruộng đồng ta bằng hóa học, Bọn đẵn gốc những mùa xuân nay lộc.
Bọn đâm lê vào nhưungx áo cà sa.... Ghê sợ thay ! Chúng vẫn có mặ người
Đú c như ta bằng chất và ng đep
nhất
Dêt
như ta trong tấm lua
của đờ i
Mạt kẻ giết người lại giống mặt người bị giết
Khi giăc
bắn và o ta ,khi chú ng hô khẩu lênh
Tại làm sao vẫn là tiếng của người Múc trong suối của dòng đời lấp lánh Chúng reo cười trong lúc máu ta rơi...
(Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta).
Bọn giết người “ Vân
có măt
ngườ i ” là cái điều kinh dị nhất , ghê tởm
nhất. Mang hình hài bô ̣măṭ con người nhưng tâm hồn của chúng là của quy
dữ. Liêu có thể coi đó là những con người hay không khi mà tâm hồn chúng
vô cảm trước nỗi đau khổ của con ng ười, của những đứa trẻ thơ đang máu
chảy đầu rơi. Căm phân
, xót đau nhưng Chế Lan Viên vẫn chứ ng tỏ môt
niềm
lạc quan, tin tưởng vào tương lai chiến thắng của dân tôc
. Bài thơ “Sao chiến
thắng” có thể được xem là bài thơ đã thức dây niềm tin của dân tôc̣ :
sắc màu của chiến thắng và
“Đêm nay sao chín và ng như thóc giống
Phải đêm nay trời cũng được mùa ? Trờ i sao cao như là chiến trâṇ
Sao sá ng ngờ i vũ khí lòng ta!