Do tư duy lý luân lấn át nên cái tôi trữ tình thường ẩn đi . Cái tôi trữ
tình trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện trong nhiều hình t hái khác nhau : “Khi
thì lộ rõ , khi thì ẩn khuất , khi thì như môt
đối tươn
g phản á nh , khi thì lai
chính là cái tôi tác giả – chủ thể thẩm mỹ, khi thì thiên về nôi
dung, có khi lại
thiên về hình thứ c . Nó đã có một chặng đườ ng phá t triển và thay đổi liên tu ̣ c từ Điêu tà n đến Há i theo mùa”[43,152]
Trong “Điêu tà n” - tâp thơ đầu tay của Chế Lan Viên cái tôi thường
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 1
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 2
- Khái Niệm Về Tư Duy Thơ 1.1.1.khái Niệm Về Tư Duy
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 5
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 6
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
nằm dưới daṇ g biểu hiên
trưc
tiếp như là nhân vâṭ trữ tình duy nhất . Tuy
nhiên cái tôi ấy laị đôi lốt chữ “ Ta” nên hơi khó phân biêṭ. Trong hầu hêt́ các
bài thơ, cái “Ta” ấy là cái tôi trữ tình lộ rõ , xuất hiên
ở khắp moi
nơi , đôi khi
nó lại xuất hiện với kẻ khác . Trong môt Lan Viên viết :
bài thơ của tâp
thơ “Điêu tàn”, Chế
“ Ta găp
nà ng trên môt
vì sao nho,̉
Ta hôn nà ng trong bóng nú i mây cao,
Ta ôm nà ng trong những nguồn trăng đô,̉ Ta ghì nà ng trong những suối trăng sao”
Cũng có khi nó lại xuất hiện như một đối tượng thẩm mỹ :
“ Ai bảo giù m : Ta có ta không?”
“Cái tôi trữ tình xuất hiện trưc
tiếp trong thơ trữ tình như vây
tao
điều
kiên
cho Chế Lan Viên bôc
lộ cảm xú c và suy nghĩ trưc
tiếp . Nhưng vì những
cảm xúc và suy nghĩ ấy lại hướng vào chính mình nên cái tôi trữ tình tưởng
như đồng nhất vớ i cá i tôi tá c giả , đó là tình trang nhà thơ tự khai thá c mình ,
phân tích tình cảm riêng mình mà không hướ ng và o hiên
thưc
cuôc
sống. Đặc
điểm nà y thích hơp
vớ i thơ lãng man
. Nếu xé t cá i ta theo ý nghia
cá i chung ,
cái xã hội có tính lịch sử thì trong Điêu tàn chưa có . Điêu tà n chỉ nói đến “
Cõi Ta” một cách chung chung , trừ u tươn
g, đai
biểu cho cá i quan niêm
“bể
khổ trần gian”. Như vây
cá i ta đang ẩn khuất” [43,153].
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có một sự thay đổi theo các
chăṇ g đường sáng tác của nhà thơ . Giai đoan trước và sau Cách maṇ g có môt
sự chuyển đổi rõ nét . Nếu đăṭ các tâp
thơ “Điêu tà n” bên canh tâp
thơ “Gử i
các anh”, ta tưởng như của hai tác giả khác nhau . Sự khác nhau đó thể hiên
trên cả nôi
dung, hình thức, cả chất và cả lượng.
Trong tâp
thơ “ Gử i cá c anh” , người đoc
không thấy cái tôi - nhân vât
trữ tình số môt đâu cả . Chúng ta chỉ thấy những chữ như “chú ng tôi”, “con”
chỉ một vài lần nhắc lại một cách chung chung mà những người kháng chiến
xưng hô với nhau. Ở đây ta thấy “Cá i ta đang dần dần mở rông từ cá i ta Viêt
Nam đến cá i ta quốc tế , từ cá i ta ban bè đến cá i ta đồng chí anh em”
[43,153]. Ta cũng thấy ở đây cái ta xuất hiên rất ít và cũng chưa điṇ h hình la
cái ta dân tộc, giai cấp hay nhân dân . Ta chỉ thấy đó là những hình ảnh chung chung như: mấy vùng xóm nghèo , mấy người vê ̣quốc hy sinh , những bà me
hâu
phương và những người ban
mới là Liên Xô và Trung Quốc.
Trong tâp
thơ “Gử i cá c anh” cái tôi hầu như không xuất hiện nhiều, mà
thay vào đó là cái ta phát triển , hình tượng thơ trở nên có bề rộng mà thiếu đi
bề sâu . Điểm nổi rõ nhất trong tâp thơ này đó là hầu hêt́ các bài thơ đêù la
những bài thơ dài , có bài dài tới chín trang , câu thơ cũng gian ra quá lỏng , có
những câu thơ mà người ta cứ tưởng là môt
đoan
thơ . Có những câu thơ dài
đến gần 60 chữ, nghĩa là hơn một bài thất ngôn bát cú . “Lý do vắng bóng của cái tôi chỉ có thể giải thích bằng cả nguyên nhân tư tưởng lẫn ngu yên nhân
phương phá p sá ng tá c . Bấy giờ cá i tôi đươc
quan niêm
như là môt
cá i tôi
riêng tư, cá nhân, đăc
biêt
là cá i tôi lãng man
thì chưa thích nghi vớ i cuôc
kháng chiến đầy gian khổ hy sinh . Vì vậy cái tôi cũ thì bị nhà th ơ giam lỏng, “quản thú c”, chờ ngà y hòa bình đem ra xé t xử . Còn cái tôi mới thì còn đang
ngại ngùng, e ấp, chưa có đủ can đảm để xuất đầu lộ diên
. Hình tượng thơ ở
thờ i kỳ nà y thiếu môt sứ c bay bổng , vươn cao. Hơn nữa đâ y là thờ i kỳ là m
quen vớ i phương phá p sá ng tá c mớ i nên không trá nh khỏi những bỡ ngỡ va
những thất bai
có tính chất thử nghiêm
” [43,154].
Đến tâp
thơ “ Ánh sáng và phù sa”, đâu đâu ta cũng thấy vang lên khúc
ca chiến thắng của cái mới đối với cái cũ. Trong tâp
thơ này, ta nhân
ra cái tôi
lần thứ hai xuất hiên
trong thơ ông như môt
đề tài , như môt
nôi
dung biểu
hiêṇ . Điều này còn thể hiên
rõ hơn trong giai đoan
Di cảo của Chế Lan Viên .
Cái tôi trong “Điêu tà n” Chế Lan Viên đưa ra môt cá i tôi chiêń si ̃ còn rất trẻ
trung nhưng đã đươc
tôi luyên
trong kháng chiến , trong những ngày đi thưc
tế, làm công tác “tổ chứ c sá ng tá c”. Sau lưng nó có môt
cái ta rôn
g lớn , làm
nền cho cuôc
đấu tranh, và cuộc chiến đấu bắt đầu :
“Dĩ vãng buồn thương mang lá cờ đen,
Đến là m giăc giữa lòng ta. Ta bắn chết.
Đời rực rỡ phù sa, ta kiến thiết
Những phố phườ ng da thiṭ ử ng hồng lên.
( Vàng của lòng tin – Ánh sáng và phù sa )
Ở đây ta thấy “ Dĩ vãng buồn thương của tá c giả chính là cá i tôi – điêu tàn, cái tôi – quá khứ. Chữ “ta” ở đây chính là cá i tôi chiến sĩ . Đời rực rỡ
phù sa chính là lực lượn g hâu
bi ̣bên ngoà i . Cái tôi chiến sĩ là cái tôi “đi ra
vớ i đờ i, đi ra vớ i ngườ i”, là nhân vật trữ tình gắn bó chặt chẽ với những nhân
vât
khá c, vớ i cá i ta rôn
g lớ n trong thơ . Khi cá i tôi đã hòa và o cá i ta thì dòng
suy nghĩ tưởng sẽ trở nên mềm mại hơn nhờ trí tưởng tượng bay bổng. Cái tôi
không còn cảm thấy bi ̣gò bó bởi cá i ta hay bởi chính mình . Trí tưởng tượng
phóng túng bấy giờ thấy mình thực sự tự do, như con “ chim lươn
trăm vòng”
trên mình Tổ quốc, bay đi tìm hình ảnh đep
” [43,155].
“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi và o,
Thấy ngà n nú i trăm sông diêm
lê.̣
Con ngoc
trai đêm hè đá y bê,̉
Uống thủy triều bôn
g sá ng hat
châu”.
( Chim lươn
trăm vòng – Ánh sáng và phù sa)
Trong thơ Chế Lan Viên cái tôi luôn có sự vận động , biến hóa. Cái tôi
trữ tình ấy có khi không còn là kẻ ngắm nhìn , ngơi ca bên ngoài , mà nó là
chiếc cầu nối giao hòa giữa hai miền không gian và thời gian xa cách la ̣ i gần
nhau.Tưởng như nếu vắng nó thì bài thơ không thế ra đời đươc phương tiêṇ , vì không có chiếc cầu liên tưởng :
“ Tôi đi từ ...
vì thiếu
Đi từ nơi anh hù ng Nú p cầm lai vũ khí năm xưa
ngày nay trăm lần sắc bé n
Đi từ nơi CuBa thà nh tiếng rung đôṇ
trong ba mươi triêu
g thiêng liêng trá i tim ngườ i
Đến đất nướ c anh hù ng moc lên giữa sóng
Đến xứ nà y tìm đến Viêt
Nam tôi.
( Tôi đi từ ... Tôi đến – Hoa ngày thường...)
Càng về cuối chặng đường thơ chống Mỹ cứu nước thì cái tôi trên đây càng có xu hướng khuất dần trước cái ta , và Chế Lan Viên để cho nó dần da thu mình vào trong những chủ đề nho nhỏ , những bài “ tiểu th i”. Nhưng cái
tôi đó sẽ phuc sinh hoàn toàn trong “ Di cảo thơ” [43,156].
Đến những bài thơ trong tâp
thơ “ Những bà i thơ đá nh giăc
” ta không
thấy cái tôi xuất hiên
trưc
tiếp nữa . Trong những bài thơ chính luân
thì điều
đó hoà n toàn phù hơp
. Thơ chính luân
thường thiên về biểu hiên
môt
cách
khách quan và trực tiếp các quan điểm tư tưởng của một tầng lớp , môt giai
cấp hay của môt
quốc gia nhất điṇ h . Do vâỵ , có thể nói tác giả thơ chính luận
là người phát ngôn các quan điểm chính trị bằng thơ . Các nhà thơ chính luận
thường phải cố giấu mình đi để nhân danh cái Ta rông lớn khi tuyên chiêń với
kẻ thù . “Khi cá i tôi nhà thơ không trưc
tiếp thể hiên
trong thơ thì cá i tôi trư
tình trở nên ẩn khuất . Khi nà o tá c giả cố ý để cho cá i tôi xuất đầu lộ diên thì
vô tình anh ta đã thêm và o môt
dấu “ +” giữa thơ và chính luân
. Cái dấu
côn
g ấy không gắn đươc
, mà trái lại nó tách thơ ra khỏi chính luận. Thơ thì
cần cá i tôi, chính luận thì cần cái ta. Vì trong cái ta của thơ chính luận đã có
thể só cá i tôi rồi , cho nên cá i tôi và cá i ta sẽ quyên
chăt
và o nhau trong thơ
chính luận khi cái tôi rồi , cho nên cá i tô i và cá i ta sẽ quyên
chăt
và o nhau
trong thơ chính luân khi cá i tôi trữ tình ẩn khuất . Có như thế mạch suy tưởng
trong thơ chính luân
mớ i mang tính chất tổng hơp
, khái quát, mà không rơi
vào tính cá thể của cái riêng” [43,157]
Trong thơ chính luân
vì đăṭ nhiêm
vu ̣thể hiên
tư tưởng dân tôc
đất
nước lên làm nhiêm
vu ̣tron
g yếu , cho nên cái tôi trữ tình thường phải ẩn đi ,
nhường chỗ cho cái ta lên ngôi. “ Khả năng thuyết phuc của thơ chính luân la
ở tính chất khách quan hóa của các quan điểm tư tưởng , tính chính xác của
những luân
điểm chính tri ̣mang tư tưởng khoa hoc
cá ch man
g , tính tất yếu
của một xu thế thời đại mà thơ ca làm nhiệm vụ tiên tri . Sẽ trở nên cô đơn va
yếu ớ t, nếu tá c giả thơ ca lai
đứ ng ở góc độ cá nhân để lên á n cả môt
thế lưc ,
môt
chính quyền. Tác giả phải nhân danh giai cấp , dân tộc,... để tấn công kẻ
thù. Cho nên trong suy tưởng tổng hơp
, tác giả cần giấu mình đi để cho
những quan điểm đườ ng lối thât sự mang tính khá ch quan như là sự phản á nh
các quy luật đấu tranh xã hội” [43,158].
Do đăc
thù của thơ chính luân
cho nên cái tôi trữ tình thường ẩn đi , điều
này cũng dẫn đến s ự thiếu thuận lợi cho việc bộc lộ trực tiếp những cảm xúc
của tác giả. “ Nguyên nhân nà y gây ra cá i “khô” và cá i “khó” của thơ chính
luân
. Khi đat
đươc
tính khá ch quan trong biểu hiên
quan điểm - nghĩa là
thành công về mặ t chính luân
– thì chất thơ có nguy cơ giảm sút . Mạch suy
tưởng chỉ còn lai
cá i “sườ n” của nó, tứ c là chỉ còn lai
dòng vân
đôn
g liên tuc
và có hướng của những ý nghĩ riêng lẻ – nếu như tá c giả bỏ rơi cả cá i “ta” .
Lúc bấy giờ ngườ i ta nhân xé t rằng thơ Chế Lan Viên tỉnh tá o , không say ,
thiếu sứ c truyền cảm...”[43,158].
1.2.2. Ngôn ngữ thuyết giảng, diên
ngôn, lâp
luân
Không ngừ ng tìm tòi sáng tao
để đem laị vẻ đep
cho thơ là điều ta nhân
ra khi đoc
thơ Chế Lan Viên. Môt
điểm dễ nhân
thấy nữa là thơ Chế L an Viên
giàu tính thuyết giảng, diên
ngôn, lâp
luâṇ . Điều đó đươc
thể hiên
ở những tư
ngữ mà nhà thơ sử dun
g trong sự đối lâp
nhằm lý giải về môt
vấn đề nào đo
trong cuôc
sống mà nhà nhơ tră n trở , nghiền ngâm
. Trong rất nhiều câu thơ
được nhà thơ sử dụng mang ý nghĩa tương phản đối lập:
- Xưa phù du mà nay đã phù sa
- Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
- Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
- Tôi đổi năm đau lấy những ngà y là nh
- Giữa đuc
của đờ i môt
ngon
suối trong
- Ngõ rất cụt mà lòng sâu thẳm Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm
- Mắt dà o lê ̣đau thương nhưng lòng đã mỉm cườ i
Ở những c âu thơ trên sự tương phản trong ngôn từ đã taoấn đậm nét về những vấn đề mà nhà thơ cần thể hiện.
nên môt
dấu
Trong thơ Chế Lan Viên , cách sử dụng từ “ là” cũng phần nào thể hiện tính triết luận . Những câu thơ có từ “ là” ấy không chỉ mang ý nghĩa giải
thích, điṇ h nghia
về môt
sự vât
, hiên
tươn
g, mà còn mang giá trị khẳng định
những suy nghiêm
của nhà thơ trước cuôc
đời:
- Tây Bắc ơi, ngườ i là me ̣của hồn thơ
- Có những căm thù là hạnh phúc
Tính triết luận trong thơ Chế Lan Viên còn được thể hiện ở những câu hỏi tu từ trong các bài thơ . Các câu hỏi tu từ thường được gắn với các từ : “gì”,“đâu”, “chăng”, “ư”, “ai”, “không”, “chả lẽ”, “có phải”, “có biết”...
Hành trình sáng tác thơ Chế Lan Viên là hành trình của sự thay đổi về
ngôn ngữ . Điều đó đã tao Lan Viên.
nên nét đăc
sắc , khác biệt trong ngôn ngữ thơ Chế
Đặc trưng cơ bản của thơ chính luận là cấu trúc chặt chẽ , tâp trung thể
hiên
môt
nôi
dung cu ̣thể . Trong những bài thơ chính luân
thì “ mối liên hê
giữa cá c ý , tứ phải có môt độ bền vững nhất điṇ h thì những tư tưởng lớ n mớ i
đươc
hình thà nh và truyền bá qua thơ . Thơ chính luân
không nh ất thiết phải
là thơ dài, nhưng vấn đề nó đăt
ra phải giải quyết môt
cá ch tron
veṇ , triêt
để”
[43,159]. Trong Văn hoc trung đaị Viêṭ Nam , có những bài thơ chính luận rất
ngắn nhưng đã đaṭ tới trình đô ̣mâu có một tác phẩm nào vượt qua:
mưc
cổ điển trong kết cấu, mà có lẽ không
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiêt
nhiên điṇ h phân
tai
thiên thư.
Như hà nghic̣ h lỗ lai xâm pham,
Nhữ đẳng hà nh khan thủ bai
hư.”
( Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt) Trong bài thơ này , Lý Thường Kiệt đã xuất phát từ một luận điểm
chính và đã khẳng định nó bằng một kết cấu rất chặt chẽ . Điều đăc
biêṭ ở bài
thơ này đó là nôi
dung triết lý , là tư tưởng độc lập đươc
khẳng điṇ h như môt
chân lý vinh cử u mà Lý Thường Kiêṭ muốn gử i gắm q ua bài thơ của mình .
Đặc sắc của bài thơ là âm hưởng hào hùng lại được toát lên từ một kết cấu chăṭ che.̃
“Suy tưởng đươc
coi như là đôn
g lưc
để thúc đẩy cho hình tượng thơ
vân
đôn
g và phá t triển. Sự vân
đôn
g và phá t triển ấy phải nhằm biểu hiên
môt
tư tưởng, môt
nôi
dung triết lý nà o đó . Có khi sự triết lý đó lại là mục đích
của vận động thơ. Ngay từ thờ i “ Ánh sá ng và phù sa” , Chế Lan Viên đã bôc
lộ kiểu suy tưởng triết lý . Tư tưởng triết lý có khi đươc
rú t thà nh môt
ý cu ̣ thể
nằm ở phía cuối bà i thơ . Có khi nó như một cái đòn bẩy đặt vào điểm cuối
cùng nơi hình tư ợng thơ vận động tới , nhờ sứ c năn
g của ý nghia
triết lý ma
nó nâng tư tưởng bài thơ lên tới “cực đại”’ [43,179,180].
Kiểu kết cấu tổ chứ c như trên đã đươc
hoàn thiên
hơn trong “Những
bài thơ đánh giặc” . Tuy nhiên về cơ bản nó vẫn giữ kết luận tư tưởng nằm ở
cuối mỗi đoan
thơ. Thơ chính luân
của Chế Lan Viên có những bài thơ rất dài,
có bài dài tới 45 trang như “Thờ i sự hè 72, Bình luận ”. Những vấn đề về
chính trị, triết luân
đươc
đăṭ r a đã đươc
Chế Lan Viên tổ chứ c hình ảnh và tư
ngữ thành từ ng đoan
, từ ng chương . Mỗi đoan
, mỗi chương đều thể hiên
rõ
môt
chủ đề khi nó đứ ng riêng lẻ , đôc
lâp
. Tuy nhiên, khi đứ ng gôp
laị trong
môt
bài thơ thì nó vần thể hiên
ý chung toàn bài.
Trong những bài thơ chính luân của Chế Lan Viên , có rất nhiều bài thể
hiên
rõ điều này. “ Bài Phác thảo cho một trận đánh, môt
bà i thơ diêt
Mỹ” có
thể coi là môt bài tiêu biêủ cho kêt́ cấu thơ ch ính luận do suy tưởng tổng hợp
tạo nên. Bài thơ này tác giả không đánh dấu thứ tự chương đoạn , nhưng từ ng
phần môṭ , thể hiên
môt
n ội dung chủ đề như những mũ i nhon
tiến công của
thơ mà ta có thể tìm thấy đươc
. Từ ng mũi tiến công có tính đôc
lâp
tác chiến
nhưng đều nhằm môt
hướng chung: “Phải diệt lũ săn người”.
Nếu lấy muc
đích kêu goi
giết thù trên đây làm tiêu chuẩn xác điṇ h mũi
tiến công thì ta thấy , trong “Phác thảo cho môt
trân
đá n h, môt
bà i thơ diêt
Mỹ” có sáu mũi cơ bản. Trong đó có mũi chính mà tác giả tâp
trung nhiều lưc
lương, có những mũi phụ rất độc đáo, táo bạo.